. vật truyền nhiễm. Các học thuyết tiến bộ về sinh vật học, miễn dịch học đã ra đời và ng y càng đợc x y dựng trên cơ sở của học thuyết tiến hoá Đacuyn, học thuyết sinh lý Paplôp và học thuyết sinh. tính chất l y lan và do các loại vi sinh vật hay còn gọi Sổ mũi, hắt hơi, đau họng là những triệu chứng thường gặp khi đường hô hấp bị tấn công bởi vi khuẩn, virus… 6.7 Bạch sản có lông ở miệng (Oral hairy Leukoplakia). Tác nhân gây bệnh là Epstein Bar Virus – EBV nhiễm tiềm ẩn từ trước trở nên hoạt tính khi TCD4< 300/uL gây quá sản lành tính ở niêm mạc miệng. Thông thường tình trạng viêm niêm mạc và mất vị giác sẽ cải thiện sau khi ngưng xạ khoảng 4 đến 8 tuần. Tình trạng khô miệng có thể cải thiện chậm hơn và trong một số trường hợp bệnh nhân có thể bị giảm tiết nước bọt lâu dài do tuyến nước bọt bị tổn Câu 23: Để phát hiện sớm ung thư niêm mạc miệng, cần hướng dẫn cho cộng đồng biết phải đi khám ngay khi có vết loét ở niêm mạc miệng: A. Đau dữ dội B. Chảy máu C. Không lành sau 15 ngày điều trị kháng sinh D. Có bờ sùi E. Không lành sau 10 ngày điều trị kháng sinh Bạn thoa đều nhựa nha đam lên vùng xuất hiện nốt viêm loét niêm mạc miệng, hoặc hòa với chút nước và sử dụng để vệ sinh miệng 3 – 4 lần/ngày, trong 1-2 tuần để đạt hiệu quả tốt nhất. Nghệ: Với khả năng chống viêm, sát trùng và kháng khuẩn được khoa học công inituI. Triệu chứng thường gặp Những dấu hiệu và triệu chứng của bệnh bạch sản là gì? Bệnh bạch sản niêm mạc miệng có những triệu chứng gì? Theo các chuyên gia sức khỏe, các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh bạch sản có thể khác nhau tùy vào mỗi người. Bệnh bạch sản được đặc trưng bởi những vết lở trông không bình thường bên trong khoang miệng. Những vết lở có thể khác nhau về hình thức và có thể có các đặc điểm sau Màu trắng hoặc màu xám không thể rửa hay cạo sạch Kết cấu không đều, có thể phẳng, dày lên, cứng, bề mặt bị sưng Có lông đối với bệnh bạch sản lông. Đốm đỏ hiếm gặp Đốm màu đỏ có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư, vì vậy hãy hỏi ý kiến bác sĩ ngay nếu bạn có các vết loang xuất hiện cùng với những đốm đỏ. Chảy máu Bệnh thường xuất hiện trên lưỡi và có thể bên trong má, nướu răng. Các vết lở có thể mất vài tuần để phát triển và hiếm khi gây đau đớn. Một số phụ nữ có thể phát triển bệnh ở bên ngoài bộ phận sinh dục hoặc trong vùng âm hộ. Bạn có thể gặp các triệu chứng khác không được đề cập. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về các dấu hiệu bệnh, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ. Khi nào cần phải đi khám? Mặc dù bạch sản thường không gây khó chịu, nhưng đôi khi tình trạng có thể chỉ ra một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hơn. Hãy đi khám ngay nếu có bất kỳ vấn đề nào sau đây Mảng trắng hoặc vết loét trong miệng không tự lành trong vòng 2 tuần Cục u hoặc mảng trắng, đỏ hoặc sẫm màu xuật hiện trong miệng Những thay đổi của các mô trong miệng diễn ra dai dẳng Đau tai khi nuốt Giảm dần khả năng mở hàm Bất cứ ai bị bạch sản nên đi khám mỗi 3 – 6 ba tháng, đôi khi cần thực hiện sinh thiết, để theo dõi những thay đổi có thể xảy ra trong tình trạng này. Nguyên nhân gây bệnh Nguyên nhân nào gây ra bệnh bạch sản? Cho đến nay, nguyên nhân chính xác gây ra bệnh bạch sản vẫn chưa được làm rõ. Tuy nhiên, bệnh chủ yếu liên quan đến việc sử dụng thuốc lá. Hút thuốc là nguyên nhân phổ biến nhất, nhai thuốc lá cũng có thể gây ra bệnh. Một số nguyên nhân thông thường khác bao gồm Chấn thương bên trong má, chẳng hạn như vết cắn, va chạm Răng không đều Răng giả, đặc biệt nếu lắp không đúng Cơ thể bị viêm. Bên cạnh đó, virus Epstein-Barr EBV là nguyên nhân chính gây ra bệnh bạch sản lông, cụ thể Bạch sản dạng mụn cóc tăng sinh PVL còn gọi là u nhú hóa là một dạng bạch sản miệng hiếm gặp nhưng đặc biệt nguy hiểm. Các nghiên cứu cho thấy nó có liên quan chặt chẽ với sự hiện diện của virus Epstein-Barr, một loại virus herpes, tòn tại trong cơ thể suốt đời. Gần như tất cả các trường hợp bạch sản dạng mụn cóc tăng sinh cuối cùng sẽ trở thành ung thư tại một số vị trí khác nhau. PVL thường được chẩn đoán muộn trong quá trình phát triển của bạch sản, vì căn bệnh này cần có thời gian để lây lan sang nhiều vị trí. Bệnh cũng có tỷ lệ tái phát cao. Bạch sản lông ở miệng Nguyên nhân là do nhiễm virus Epstein-Barr gây ra. Những người có hệ thống miễn dịch yếu, chẳng hạn như người nhiễm HIV/AIDS, có thể phát triển chứng bạch sản lông ở miệng. Tình trạng này giống như tên gọi của nó – các mảng lông màu trắng, thường có các nếp gấp nên trông giống như tóc mọc ra khỏi các nếp gấp. Những đốm này chủ yếu xảy ra trên lưỡi, nhưng có thể được tìm thấy ở các bộ phận khác của miệng. Bạch sản lông ở miệng không trở thành ung thư, nhưng nếu mắc bệnh này, bạn nên đi khám và trao đổi với bác sĩ về việc kiểm tra HIV/AIDS. Nguy cơ mắc phải Những ai thường mắc phải bệnh này? Theo các chuyên gia sức khỏe, bệnh thường phổ biến ở nam giới hơn phụ nữ, tỷ lệ nam – nữ là 21. Hầu hết các trường hợp của bệnh xảy ra ở những người trong độ tuổi từ 50 đến 70. Bạn có thể kiểm soát bệnh này bằng cách giảm thiểu các yếu tố nguy cơ. Hãy tham khảo bác sĩ để biết thêm thông tin chi tiết. Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ mắc bệnh bạch sản? Bạn có thể có nguy cơ cao mắc tình trạng này nếu đang Hút thuốc lá Thói quen xấu này khiến bạn có nguy cơ cao mắc bệnh bạch sản và ung thư miệng Uống rượu kết hợp với hút thuốc. Bệnh bạch sản miệng Chẩn đoán và điều trị Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của chuyên viên y tế, vậy nên tốt nhất là bạn hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ. Những kỹ thuật y tế nào được dùng để chẩn đoán bệnh? Nếu nghi ngờ bạn mắc bệnh, bác sĩ có thể tiến hành khám răng miệng. Trong quá trình khám, nha sĩ hoặc bác sĩ có thể xác nhận vết loét có phải là của bệnh bạch sản hay không. Bạn có thể nhầm lẫn tình trạng này với bệnh nấm miệng. Các vết loét mà bệnh nấm miệng gây ra thường nhẹ hơn so với các vết loét của bệnh bạch sản và dễ chảy máu. Nếu các bác sĩ không tìm thấy nguyên nhân và các mảng trắng không biến mất sau 2 – 4 tuần, bạn sẽ được chỉ định là sinh thiết để kiểm tra. Trường hợp sau khi làm sinh thiết vẫn không cho kết quả chẩn đoán rõ ràng, mảng trắng có thể được xác nhận là bạch sản, nghĩa là nó có khả năng trở thành ung thư. Nếu sinh thiết cho thấy có các tế bào ung thư, bác sĩ có thể kết luận bạn bị ung thư chứ không phải bạch sản. Những phương pháp nào dùng để điều trị bệnh bạch sản? Mục tiêu chính của điều trị bạch sản là ngăn ngừa nó trở thành ung thư. Tuy nhiên, theo các chuyên gia sức khỏe, việc điều trị là một thách thức và kết quả thường khác nhau ở mỗi người. Việc điều trị có thể giúp loại bỏ các tổn thương, nhưng nhiều người vẫn bị tái phát. Điều trị bằng thuốc và chất bổ sung Ngừng sử dụng thuốc lá và rượu. Ăn một chế độ ăn nhiều trái cây và rau quả. Sử dụng retinoids đường uống có thể giúp giảm các tổn thương, nhưng tái phát và tác dụng phụ là phổ biến. Dùng các chất bổ sung vitamin A và beta-carotene dùng đường uống có thể giúp làm sạch các mảng trắng, nhưng chúng sẽ xuất hiện trở lại sau khi bạn ngừng sử dụng. Các chất bổ sung isotretinoin đã được phát hiện là có hiệu quả hơn beta-carotene trong việc ngăn ngừa những thay đổi của ung thư. Chữa trị các yếu tố liên quan đến răng miệng như răng hô, mắc cài răng, bề mặt hàm răng giả có dấu hiệu bất thường hoặc các miếng trám răng bất thường càng sớm càng tốt. Đối với bệnh bạch sản dạng lông ở miệng, việc sử dụng thuốc kháng virus thông thường sẽ làm các mảng bám biến mất. Bác sĩ có thể sẽ đề nghị bạn thoa thuốc lên các mảng bám. Thuốc mỡ bôi có chứa axit retinoic cũng có thể được sử dụng để làm giảm kích thước vết loét. Điều trị ngoại khoa Bạn có thể được điều trị bằng một trong các phương pháp sau Phẫu thuật Giúp loại bỏ các mảng tổn thương, tuy nhiên, vẫn có 10 – 20% khả năng các tổn thương sẽ tái phát và 3 – 12% có nguy cơ phát triển ung thư ở những vùng được điều trị. Laser Loại bỏ các tổn thương bằng tia laser. Liệu pháp quang động Sử dụng thuốc điều trị ung thư kích hoạt bằng ánh sáng. Phương pháp áp lạnh Sử dụng phương pháp đông lạnh để loại bỏ tổn thương. Đốt điện Sử dụng kim đốt nóng bằng điện hoặc dụng cụ khác để loại bỏ tổn thương. Chế độ sinh hoạt phù hợp Những thói quen sinh hoạt nào giúp bạn hạn chế diễn tiến của bệnh? Bạn có thể kiểm soát bệnh này nếu áp dụng các biện pháp sau Tránh/bỏ thuốc lá Tránh tất cả các sản phẩm thuốc lá và hỏi bác sĩ về các phương pháp giúp bỏ thuốc lá. Nếu bạn bè hoặc thành viên trong gia đình tiếp tục hút thuốc hoặc nhai thuốc lá, bạn nên khuyến khích họ kiểm tra răng miệng thường xuyên. Bệnh ung thư miệng thường không gây đau cho đến khi có dấu hiệu rõ ràng. Tránh hoặc hạn chế sử dụng rượu Rượu là yếu tố có thể gây ra cả hai bệnh bạch sản và ung thư miệng. Kết hợp rượu và thuốc lá có thể giúp các hóa chất độc hại trong thuốc lá xâm nhập vào các mô trong miệng dễ dàng hơn. Khám nha khoa định kỳ Việc này giúp kịp thời phát hiện các vấn đề về răng miệng. Ăn nhiều rau xanh và hoa quả tươi Bởi chúng có chứa các chất oxy hóa giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh bạch sản. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi, xin vui lòng tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn phương pháp hỗ trợ điều trị tốt nhất. Sức khỏeTin tức Thứ năm, 8/6/2023, 1506 GMT+7 TP HCMTrong vòng 4 tiếng đồng hồ, bé trai 17 tháng tuổi mắc tay chân miệng diễn biến nặng độ 4 rất nhanh, suy hô hấp, phải lọc máu liên tục. Ngày 8/6, bác sĩ Nguyễn Minh Tiến, Phó giám đốc Bệnh viện Nhi đồng Thành phố, cho biết bé chuyển nặng sau ba ngày sốt, điều trị tại phòng khám tư ở Đồng Tháp không bớt, được chuyển đến TP HCM vào ngày thứ tư khởi phát bệnh. Lúc này, mạch của bé trên 200 lần/phút, suy hô hấp, da nổi bông tái, tiến triển nặng rất nhanh, lên độ 4 chỉ sau 4 giờ, sốt cao 40-41 độ do bão cytokine - tình trạng hệ miễn dịch phản ứng thái quá chống lại cơ được bác sĩ đặt nội khí quản, thở máy, lọc máu liên tục để loại trừ cơn bão cytokine. Sau hai ngày điều trị, bệnh nhi đáp ứng với những biện pháp hồi sức ban đầu, được điều trị cách ly và theo dõi sát tại Khoa Hồi sức tích cực chống độc. Bé trai 17 tháng tuổi điều trị tại Khoa Hồi sức tích cực chống độc, Bệnh viện Nhi đồng Thành phố. Ảnh Bệnh viện cung cấp Bé là một trong bốn bệnh nhi tay chân miệng nặng được bệnh viện cứu sống trong tuần qua, xét nghiệm PCR dịch phết họng trực tràng đều nhiễm type virus EV71. Trong đó, có bé ban đầu chỉ nổi ít hồng ban ở môi khiến phụ huynh chủ quan, sau đó chuyển nặng rất bác sĩ Tiến, đặc tính của EV71 là lây lan rất nhanh và diễn tiến nặng, sốt cao. Trẻ mắc tay chân miệng do EV71 có thể gặp các biến chứng như thần kinh, tim mạch, phù phổi, sốc, suy tim và tử vong xâm nhập vào cơ thể thường khu trú ở niêm mạc má hoặc niêm mạc ruột vùng hồi tràng. Sau 24 giờ, virus đến các hạch bạch huyết xung quanh, từ đây xâm nhập vào máu gây nhiễm khuẩn huyết chỉ trong một thời gian ngắn. Từ nhiễm khuẩn huyết, virus đến niêm mạc miệng và da. Thời kỳ ủ bệnh thường kéo dài 3-7 ngày. Bệnh khởi phát là sốt, sau đó xuất hiện các bọng nước ở niêm mạc miệng nướu răng, lưỡi, bên trong má, ban đỏ ở bàn tay, bàn chân. Trường hợp nhiễm EV71, bệnh diễn biến phức tạp hơn, khi virus gây tổn thương hệ thần kinh trung ương sẽ dẫn đến viêm màng EV71 không chỉ gây bệnh tay chân miệng mà còn có khả năng gây bệnh ở hệ thần kinh trung ương như viêm màng não virus, hiếm hơn là các thể trầm trọng như viêm não hay liệt kiểu bại tâm Kiểm soát bệnh tật TP HCM ghi nhận số trẻ em mắc bệnh tay chân miệng tại thành phố tăng nhanh trong các tuần gần đây. Số ca bệnh trong đầu tháng 6 cao gấp hơn hai lần so với hai tuần trước đó. Sự xuất hiện trở lại của chủng virus EV71 gây bệnh nặng khiến tình hình "thực sự đáng lo ngại". Các bệnh viện nhi đang điều trị 20-25 ca tay chân miệng nội trú mỗi viện một ngày, trong đó có nhiều bệnh nhân nặng. Các tháng trước đó, trung bình 5-6 bệnh nhi nằm viện hoặc không có ca 6/6, UBND TP HCM ra văn bản khẩn yêu cầu các đơn vị phòng chống bệnh tay chân miệng, khu vực nguy cơ cao như điểm trông giữ trẻ, trường mầm non, tiểu học, khu dân cư, nhà trọ có nhiều trẻ em. Người dân được khuyến cáo vệ sinh môi trường sống, theo dõi các triệu chứng bệnh và vào viện kịp thời, tránh chủ quan. Sở Y tế đã xây dựng các kịch bản thu dung, điều trị nếu số ca mắc tăng; đảm bảo thuốc và nhân Ý Bất cứ là hồng sản hoặc bạch sản lan rộng, các bác sĩ đều nên rạch sinh thiết hoặc làm tế bào tróc vì cần phải điều trị cho bệnh nhân. Biên tập viên Trần Tiến Phong Đánh giá Trần Trà My, Trần Phương Phương Bạch sản là thương tổn màu trắng, không giống như nấm candida trong miệng, không thể lấy đi bằng cách quệt thông thường lên niêm mạc, ở những vùng này thường tổn thương nhỏ nhưng có thể có đường kính vài cm. Về tổ chức học, bạch sản có thể chỉ là tăng sừng hóa đáp ứng với những kích thích mạn tính do răng, thuốc lá..., tuy nhiên khoảng 2 - 6% thấy có loạn sản hoặc ở giai đoạn sớm của ung thư biểu mô. Hồng sản cũng giống như bạch sản, ngoài ra được xác định bởi những ban đỏ rõ rệt. Sự phân biệt này rất quan trọng vì khoảng 90% các trường hợp hồng sản hoặc bị quá sản hoặc là ung thư. Ung thư biểu mô chiếm khoảng 90% các trường hợp ung thư miệng. Rượu và thuốc lá là những yếu tố dịch tễ chính. Chẩn đoán phân biệt với nấm candida miệng, dị sản tuyến nước bọt hoại tử, quá sản giả biểu mô, viêm lưỡi giữa hình thoi ?, bệnh viêm nang trợt như đám địa y dẹt bị trợt loét. Không nên nhầm với những mảng hắc tố màu nâu đen ở lợi - lan tỏa hay lốm đốm, thường là những mảng không trắng, có màu xanh đen của hàm răng, hoặc những rối loạn toàn thân khác có những mảng sắc tố bệnh xơ - thần kinh, bệnh polip có tính gia đình, bệnh Addison. U hắc tố trong miệng rất hiếm. Bất cứ là hồng sản hoặc bạch sản lan rộng, các bác sĩ đều nên rạch sinh thiết hoặc làm tế bào tróc vì cần phải điều trị cho bệnh nhân. Nhập viện là đặc biệt cần cả cho chẩn đoán và điều trị sớm. Nhuộm khoang miệng bằng xanh toluidin 1% giúp cho việc chọn chỗ nghi ngờ nhất để sinh thiết. Thăm khám có hệ thống khoang miệng bao gồm bờ bên của lưỡi, sàn miệng, lợi, niêm mạc má, màn hầu, hốc amidan và sờ vùng cổ phát hiện hạch to; đây là những khám xét thường qui đặc biệt với những bệnh nhân trên 45 tuổi có hút thuốc và uống rượu quá mức. Khám trực tiếp hay soi ống mềm họng mũi, họng miệng, họng và thanh quản cần được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật tai mũi họng đầu cổ hoặc bác sĩ chuyên điều trị tia. Chọc hút sinh thiết kín nhỏ có thể đựợc chỉ định nếu khám thấy có hạch to. Phát hiện sốm ung thư biểu mô là điểm mấu chốt để đạt kết quả tốt trong điều trị. Các tổn thương sâu dưới 4 mm thì khả năng bị di căn thấp. Hầu hết các bệnh nhân có khối u được phát hiện khi đường kính dưới 2 cm được chữa khỏi. Những tổn thương nhỏ điều trị tốt nhất bằng phẫu thuật cắt bỏ, thường dùng bằng laser. Điều trị bằng tia xạ có kết quả nhưng bệnh nhân có thể bị khô miệng, hoại tử xương hàm dưới, và không thể thực hiện được liều điều trị lại với những trường hợp đó. Vì vậy những khối u to thường được điều trị bằng phối hợp cắt bỏ và tia xạ. Tạo hình lại nếu cần thiết thực hiện khi cắt bỏ khối u và có thể dùng vạt da cơ hoặc mảnh ghép tự do có nối mạch không có xương. Trước đây, Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa bạch sản niêm mạc miệng là dát hoặc mảng màu trắng không có đặc trưng lâm sàng và bệnh lý học giống như các bệnh khác, vì thế phải loại trừ liken phẳng, candida, white sponge nevus. Năm 1983, tại cuộc hội thảo quốc tế đã đưa ra định nghĩa Bạch sản là dát hoặc mảng trắng không có đặc trưng về lâm sàng và bệnh lý học giống như các bệnh khác và không liên quan đến bất kỳ nguyên nhân hoá, lý học trừ thuốc lá. Tổn thương... Chủ đề bạch sản niêm mạc miệngbài giảng bệnh họcbệnh da liễubệnh về dagiáo trình bệnh da liễu Nội dung Text BẠCH SẢN NIÊM MẠC MIỆNG Oral leukoplakia BẠCH SẢN NIÊM MẠC MIỆNG Oral leukoplakia Trước đây, Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa bạch sản niêm mạc miệng là dát hoặc mảng màu trắng không có đặc trưng lâm sàng và bệnh lý học giống như các bệnh khác, vì thế phải loại trừ liken phẳng, candida, white sponge nevus. Năm 1983, tại cuộc hội thảo quốc tế đã đưa ra định nghĩa Bạch sản là dát hoặc mảng trắng không có đặc trưng về lâm sàng và bệnh lý học giống như các bệnh khác và không liên quan đến bất kỳ nguyên nhân hoá, lý học trừ thuốc lá. Tổn thương trắng ở miệng gồm bạch sản, dày sừng, do nhiễm khuẩn Candida, giang mai, virus Epstein-Barr, liken phẳng, xơ hoá dưới niêm mạc miệng oral submucous fibrosis, lupus ban đỏ, loạn sừng bẩm sinh, ung thư… Dịch tễ học Tần số bạch sản niêm mạc miệng là bệnh ít gặp, dưới 1% ở người lớn. Chủng tộc tỷ lệ mắc bệnh tăng ở những cộng đồng và chủng tộc có tỷ lệ huát thuốc lá cao, như ở Đông Nam Á. Giới nam giới mắc bệnh cao hơn nữ. Tuổi bạch sản niêm mạc miệng thường gặp ở người lớn trên 40 tuổi. Nguyên nhân Tổn thương. Thuốc lá. Rượu. Nhiễm khuẩn Candida, giang mai, virus Epstein-Barr. Hoá chất. Thiếu hụt miễn dịch bạch sản niêm xuất hiện nhiều ở những bệnh nhân ghép tạng. Lâm sàng Tổn thương là những mảng trắng đồng nhất, bề mặt mềm mịn, không loại bỏ được bằng gạc. Một số trường hợp trắng sùi verrucous leukoplakia; một số có những đám đỏ và trắng xen kẽ nhau erythroleukoplakias hoặc speckled leukoplakias. Triệu chứng cơ năng thường không có. Cận lâm sàng Mô bệnh học. Điều trị Mục đích là phát hiện và ngăn chặn chuyển ác tính. Theo dõi khám định kỳ 3-6 tháng 1 lần. Thuốc Retinoid Phẫu thuật loại bỏ tổn thương như nạo, laser, đốt điện,…. Tránh các yếu tố được cho là nguyên nhân thuốc lá, rượu. Một số trường hợp có thể tự thoái lui. Nguồn chủ đề U có thể bắt nguồn từ bất kỳ loại mô nào trong và xung quanh miệng, bao gồm mô liên kết, xương, cơ và dây thần kinh. Thông thường hay gặp u hình thành trên môi, mặt bên lưỡi, sàn miệng, và vòm miệng mềm. Một số u gây đau hoặc kích thích. U có thể được phát hiện bởi bệnh nhân hoặc chỉ phát hiện khi khám. U ở miệng có thể là Lành tínhTiền ác tính loạn sảnÁc tính Hầu hết các u miệng là lành tính; có rất nhiều loại. Kích thích mạn tính có thể tạo một khối dai dẳng hoặc một vùng phồng lên trên lợi. U lành tính do kích ứng tương đối phổ biến và, nếu cần thiết, có thể được loại bỏ bằng phẫu thuật. Trong 10 đến 40% bệnh nhân, u lành tính ở lợi tái phát do yếu tố kích thích vẫn còn. Đôi khi, các yếu tố kích thích này, đặc biệt nếu nó vẫn tồn tại trong một thời gian dài, có thể dẫn đến các thay đổi tiền ác tính hoặc ác tính. Nhiều loại nang gây đau và sưng tấy vùng hàm. Thông thường chúng có liên quan với răng khôn ngầm và khi tiến triển có thể gây phá hủy lớn ở xương hàm. Một số loại nang có xu hướng tái phát sau khi được phẫu thuật cắt bỏ. Các loại nang cũng có thể phát triển ở sàn miệng. Thông thường, các nang này được phẫu thuật cắt bỏ vì gây nuốt khó và mất thẩm mạc nang nhầy và nang nhái không đau, lành tính, sưng tấy trong lòng miệng do sự tích tụ của nang tuyến nước bọt hoặc giả nang tuyến nước bọt. Họ thường bị chấn thương về nguồn gốc. Cho đến nay các tổn thương phổ biến nhất, niêm mạc thường xảy ra ở bên trong môi dưới và thường có màu xanh mờ do sự xuất hiện của niêm mạc dưới niêm mạc. Chúng thường là kết quả của việc vô tình cắn môi dưới và xảy ra khi dòng nước bọt từ một tuyến nước bọt nhỏ bị tắc nghẽn. Hầu hết các chất nhầy biến mất sau một hoặc hai tuần. Nang nhái sàn miệng là lớn, thường nhầy niêm mạc trên sàn miệng. Điều trị là phẫu thuật cắt xương là các khối xương phát triển chậm, hình tròn nằm trong xương, nằm giữa vòm miệng cứng torus palatinus hoặc mặt trong xương hàm dưới torus mandibularis. Lồi rắn này phổ biến và vô hại. Thậm chí một lồi xương lớn cũng không cần phải can thiệp trừ khi nó gây chấn thương khi ăn hoặc bệnh nhân cần làm hàm giả tại nơi có lồi rắn. U răng là sự phát triển quá mức của các tế bào tạo răng trông giống như những cái răng nhỏ, không rõ hình thù. Ở trẻ em, chúng có thể xảy ra trong quá trình mọc răng bình thường. Ở người trưởng thành, chúng có thể đẩy răng ra khỏi cung hàm. U răng lớn cũng có thể gây to hàm trên hoặc hàm dưới. Chúng thường được phẫu thuật cắt bỏ. Các vùng màu trắng, đỏ hoặc trắng-đỏ không dễ lấy đi, tồn tại trong > 2 tuần, và không thể xác định trong khi có thể là loạn sản. Các yếu tố nguy cơ tương tự cũng có liên quan đến loạn sản như u ác tính, và loạn sản cũng có thể chuyển dạng ác tính nếu không được loại bỏ. Bạch sản là một đốm trắng phẳng có thể phát triển khi niêm mạc miệng bị kích thích trong một thời gian dài. Điểm bị kích thích có màu trắng vì nó có một lớp keratin dày lên, điều mà thông thường ít phổ biến ở niêm mạc miệng. Các yếu tố thường gắn liền với sự phát triển bạch sản miệng tự phát bao gồm sử dụng thuốc lá, uống rượu, thiếu vitamin và rối loạn nội tiết. Hồng sản là một vùng da đỏ và phẳng hoặc mòn đi, xảy ra khi niêm mạc miệng mỏng. Vùng này có màu đỏ là do các mao mạch bên dưới có thể nhìn thấy rõ hơn. Hồng sản thường tiến triển thành ung thư hơn bạch sản. Tổn thương hỗn hợp cho thấy các vùng xen kẽ giữa bạch sản và hồng sản và cũng có thể là tiền thân của ung thư. Những người sử dụng thuốc lá, rượu hoặc cả hai có nguy cơ lớn hơn đến 15 lần bị ung thư miệng Ung thư tế bào vẩy khoang miệng Ung thư khoang miệng thường xuất hiện ở giữa đường viền môi và đường nối của khẩu cái cứng và mềm hoặc phía sau một phần ba của lưỡi. Hơn 95% những người bị ung thư biểu mô tế bào vẩy ở miệng... đọc thêm . Đối với những người sử dụng thuốc lá nhai và hít, tổn thương thường nằm phía trong má và môi. Ở những người khác, các vị trí phổ biến nhất của ung thư là thành bên lưỡi, sàn miệng, và miệng hầu. Nhiễm human papillomavirus HPV Nhiễm vi rút gây u nhú ở người Vi rút u nhú ở người HPV gây ra mụn cóc. Một số loại gây ra mụn cóc da, và các loại khác gây ra mụn cóc sinh dục tăng hoặc phẳng tổn thương da hoặc niêm mạc của bộ phận sinh dục. Nhiễm một... đọc thêm , đặc biệt là type 16, là một yếu tố nguy cơ gây ung thư miệng, chủ yếu là ở amidan và nền lưỡi. Tại những vị trí này, HPV16 là nguyên nhân chính, phổ biến hơn cả hút thuốc lá. Hiếm khi, ung thư vùng miệng là do di căn từ phổi, vú hoặc tuyến tiền thư miệng có thể biểu hiện nhiều dạng khác nhau nhưng chủ yếu là các tổn thương loạn sản ví dụ, các vùng màu trắng, đỏ, hoặc trắng đỏ hỗn hợp mà không dễ bị lấy đi. Bệnh sử của các bệnh hiện nay bao gồm các câu hỏi về thời gian xuất hiện khối u, có đau hay không, hoặc có bất kỳ các tổn thương khác ở vùng đó ví dụ, cắn má, bị xước do cạnh răng sắc hoặc phục hình nha khoa. Bệnh nhân được hỏi về các triệu chứng của bệnh toàn thân, đặc biệt là sút cân và mệt mỏi. Khám thực thể tập trung vào miệng và cổ, khám và sờ tất cả các vùng miệng và cổ họng, kể cả dưới lưỡi. Sờ cổ để phát hiện hạch, gợi ý bệnh nhân có thể bị ung thư hoặc nhiễm trùng mạn tính. Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt Sụt cânKhối ở cổĐau họng dai dẳngkhó nuốt Điểm chính là không nhầm lẫn ung thư miệng hoặc tổn thương loạn sản với một rối loạn lành tính. Các bác sĩ lâm sàng nên duy trì một mức độ nghi ngờ cao và chuyển bệnh nhân đi sinh thiết nếu tổn thương không hết trong vài tuần. Điều trị phụ thuộc vào nguyên nhân, suy giảm chức năng cũng như thẩm mỹ, đau và khả năng ác tính của khối u được chẩn đoán. Hầu hết u ở miệng là lành cóc, nhiễm nấm Candida, và chấn thương lặp đi lặp lại là những nguyên nhân phổ biến của u lành dụng rượu, thuốc lá và nhiễm HPV qua đường miệng là những yếu tố nguy cơ gây ung ung thư rất khó chẩn đoán bằng lâm sàng nên sinh thiết thường là cần thiết. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.

bạch sản niêm mạc miệng