(Đây mùa thu tới-Xuân Diệu) Trong thơ hay hay trong cuộc đời mình , Xuân Diệu lúc nào cũng thể hiện một sự tha thiết nồng nàn khác với một bản chất sống mãnh liệt dạt dào. Rất khó có thể cho ta tìm thấy ở nhà thơ tài danh này sự nguội lạnh nhàn nhạt một cách đơn
Đây mùa thu tới - Xuân Diệu - Vì sao Hoài Thanh lại nói Xuân Diệu là "mới nhất trong các nhà thơ mới". Nêu và phân tích những cái mới đó.. Xuân Diệu "mới nhất trong các nhà thơ mới" có nghĩa là "cái tôi" của nhà thơ bùng nổ mãnh liệt, phát triển ở độ cao và
In Vietnamese poet Xuân Diệu's poem called "Đây Mùa Thu Tới", the poem features a series of scenic images of nature which are paired with the season of autumn. This imagery sets a dreary and hopeless tone to symbolize the author's feelings toward an end, possibly an end of life, though it is not certain.
Bình giảng hai câu 3-4, Xuân Diệu đã viết: "Thật tài tình! Nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, vèo, dễ tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: "tí". Tác giả Đây mùa thu tới quả thật đã phát hiện đầy đủ tài nghệ của Nguyễn Khuyến.
(Đây mùa thu tới) Cũng là thể hiện sự trơ trọi, trút lá của cây cối nhưng Xuân Diệu lại đưa vào thơ một cách diễn đạt rất mới, rất Tây mà có lẽ là từ văn chương Pháp mà ông ít nhiều bị ảnh hưởng: "Hơn một".
Viết Thu vịnh và Đây mùa thu tới, Nguyễn Khuyến và Xuân Diệu đã đóng góp cho văn học sử nước nhà hai bài thơ hay về cảnh thu và tình thu. Với Tiếng thu, Lưu Trọng Lư đã dọn cho mình một chỗ ngồi khá độc đáo trên văn đàn của những thi sĩ mùa thu: Em không nghe mùa thu
JaZpv.
Xuân Diệu I – GỢI DẪN Đây mùa thu tới 1. Về tác giả xem bài Vội vàng. 2. Đây mùa thu tới thể hiện sự nhạy cảm và mới mẻ của hồn thơ Xuân Diệu. Bài thơ buồn nhưng có nhiều sự sống. Thiên nhiên đẹp và có hồn qua cảm nhận của thi sĩ. Cảnh thu, tình thu đẹp nhưng buồn là nét nổi bật nhất của bài thơ. Đồng thời bài thơ còn thể hiện sự nối tiếp truyền thống và những cách tân sáng tạo của Xuân Diệu khi tiếp tục khai thác đề tài vô cùng quen thuộc của thơ ca cổ điển. 3. Đọc chậm, diễn cảm, xuống giọng ở câu cuối mỗi khổ thơ. Nhấn giọng ở những từ và cụm từ có chú thích. II – KIẾN THỨC CƠ BẢN Đây mùa thu tới Là nhà thơ của cảm thức về thời gian, Xuân Diệu rất nhạy cảm với những bước đi của các mùa trong năm. Thời điểm giao mùa vốn dễ gợi nhiều cảm xúc cho con người và với thi nhân đó là thời điểm sản sinh ra ý thơ. Mỗi mùa trôi qua bao giờ nhà thơ cũng có những dòng cảm xúc. Khi thì “giục giã”, “vội vàng”, khi thì reo vui chào đón, khi lại tiếc nuối… Với tâm hồn nhạy cảm, nhà thơ đã cảm nhận được bước đi rất nhẹ nhàng của mùa thu. Điều này đã được thể hiện ở Đây mùa thu tới. Mùa thu với vẻ đẹp riêng rất lãng mạn và rất thơ nên đã chiếm được cảm tình đặc biệt của thi nhân. Dường như thu là mùa của tâm trạng, của cảm xúc. Trước cảnh thu người ta thường tức cảnh sinh tình. Đỗ Phủ khi xa quê trong cảnh loạn li, trước mùa thu đã có chùm Thu hứng nổi tiếng. Nguyễn Khuyến với tâm sự u uất của một nhà nho đau đời trước cảnh nước mất nhà tan, ở một làng quê yên ả đã có cả “chùm thơ thu” nức tiếng. Cuộc chia tay đầy dự cảm của Thúc Sinh – Thuý Kiều được diễn ra trong cảnh thu hiu hắt với rừng phong đã “nhuốm màu quan san”. Lưu Trọng Lư lại xao động trước “Tiếng thu” huyền diệu. Còn thu đến dưới cặp mắt xanh non của thi sĩ đa tình, đa sầu, đa cảm Xuân Diệu là sự kết hợp của cả hai yếu tố cổ điển và hiện đại. Cảnh thu thường gợi buồn, đó là lẽ thường và Xuân Diệu cũng không vượt qua cái lẽ thường ấy. Nhưng không phải chỉ là buồn. Khổ thơ đầu thể hiện hai trạng thái cảm xúc trái ngược nhau. Hai câu đầu là cảnh thu thật buồn, vẻ buồn trực tiếp thể hiện qua những từ ngữ đìu hiu, buồn, lệ ngàn hàng. Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng ; Hình ảnh liễu rủ vốn là một thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ điển. Đây là hình ảnh đặc trưng của mùa thu. Hai câu thơ tiếp theo lại là tiếng reo vui đầy phấn khởi Đây mùa thu tới – mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng. Sáng tạo của Xuân Diệu nằm ở từ mơ phai. Đó là một cách miêu tả tinh tế và chính xác cảnh chớm thu. Cây cỏ chưa tàn úa, đã ngả vàng nhưng vẫn tươi. Thời gian tiếp tục chuyển động trong cảm nhận của thi nhân Hơn một loài hoa đã rụng cành, Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh ; Những luồng run rẩy rung rinh lá… Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Lại một sự sáng tạo mới, sáng tạo về lối diễn đạt, về cách tả và cách cảm nhận. Khổ thơ là kết quả của sự vận động tổng hợp mọi giác quan của con người. Dấu ấn Tây học ở thơ Xuân Diệu thể hiện khá đậm ở đây. Những từ hơn một, rũa, cách nói “những luồng…”, “đôi nhánh…” vốn còn xa lạ với thi ca thời ấy. Chính những cách diễn đạt này khiến nhiều bạn thơ đương thời đánh giá Xuân Diệu là Tây quá. Nhưng đây là điểm độc đáo của thi nhân. Cảnh vật xao động rất nhẹ nhưng được miêu tả rất cụ thể. Cái gì cũng mỏng mảnh và khe khẽ. Đó chính là nét riêng của mùa thu. Khí thu hơi lạnh được cảm nhận bằng xúc giác và diễn tả thật đạt qua cách sử dụng bốn phụ âm “r” liên tiếp. Mỗi khổ thơ là một bước đi khá dài của mùa thu. Cảnh thu được nhìn nhận rộng hơn, xa hơn Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ… Non xa khởi sự nhạt sương mờ… Đã nghe rét mướt luồn trong gió… Đã vắng người sang những chuyến đò… Đây là khí thu. Cái buồn của mùa thu đã bao trùm lên cảnh vật. Trăng thu buồn và như có tâm sự. Hai câu thơ tả trăng và núi thu mang lại sắc màu cổ điển rất rõ nét. Còn cái lạnh cuối thu đã thấm thía. Hai từ đã như là sự khẳng định chắc chắn rằng thu đã đến thật rồi. Sự tàn phai và vẻ buồn của mùa thu đã được thể hiện đủ đầy. Những bước thu êm được cảm nhận thật tinh tế. Một bức tranh thu có nhiều đường nét và màu sắc. Còn con người tuy không trực tiếp xuất hiện nhưng tâm trạng đã được thể hiện rất rõ qua cảnh thu. Đây mùa thu tới Và đến khổ thơ cuối ta thấy xuất hiện hình ảnh con người. Nhưng cảnh vật chẳng những không vui hơn mà còn buồn hơn bởi vì con người xuất hiện trong hoàn cảnh và một tâm thế đầy tâm trạng Mây vẩn từng không, chim bay đi. Khí trời u uất hận chia li. Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì. Hai câu thơ trên có thể coi như là lời kết luận cho cảnh thu, tình thu ở ba khổ trước. Tình người cô đơn buồn bã nên cảnh vật cũng quạnh quẽ, đìu hiu, u uất. Khí trời ấy khiến ta nhớ đến câu thơ của Đỗ Phủ viết khi ông chạy loạn và nhớ đến quê hương đang rên xiết dưới nạn đao binh máu lửa Tái thượng phong vân tiếp địa âm Mặt đất mây đùn cửa ải xa Khí trời u uất như cũng đang nuối tiếc trước sự chia phôi. Trước cảnh chia lìa của cảnh vật, của một cánh chim đầy tâm trạng, con người càng trầm mặc hơn Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì. Thiếu nữ là lứa tuổi nhạy cảm, đa sầu và cũng thường hay rung động mơ hồ. Xuân Diệu cũng gần như lứa tuổi ấy. Thiếu nữ ấy mang tâm sự gì ? Chắc chắn là tâm sự buồn. Nỗi buồn mông lung không xác định, thiếu một đường viền cụ thể, rất mơ hồ. Nỗi buồn không xác định “ít nhiều”, không thành hình thành tiếng “buồn không nói “. Ý nghĩ thì mông lung “nghĩ ngợi gì”. Nỗi buồn mơ hồ nhưng thấm thía. Thiếu nữ không nhìn cái gì cụ thể, nhìn xa và mơ hồ, bởi vì lúc này thiếu nữ đang nhìn vào chính lòng mình, lắng nghe tiếng nói của trái tim mình để cảm nhận nỗi buồn khi thu đến và thời gian qua đi. Câu thơ kết không nói gì rõ rệt mà gợi mở rất nhiều. Nỗi buồn thu đến hay chính là nỗi buồn của con người về cuộc đời đã nhuốm lên cảnh vật. Nỗi buồn của Xuân Diệu cũng chính là nỗi buồn của thế hệ các nhà Thơ mới. Từ góc độ này có thể thấy Đây mùa thu tới không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, niềm khát khao giao cảm mãnh liệt của Xuân Diệu mà còn gợi lên tình cảm đối với quê hương đất nước. Bài thơ khép lại mà ý thơ lại mở ra bao suy nghĩ. Đây mùa thu tới diễn tả cảnh thu đến qua đó thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình. Bài thơ đem đến một cảm giác buồn, mặc dù có tiếng reo vui. Buồn vì hình ảnh hàng liễu rủ tang tóc, buồn vì cái lạnh se sẽ len lỏi đâu đó giữa một khung cảnh trống vắng hắt hiu, buồn vì có sự tàn phai, chia lìa của cây cỏ chim muông…, và tất cả đều gợi một cái gì đó tựa như nỗi nhớ nhung bâng khuâng phảng phất khắp không gian và trong lòng người. Đó cũng chính là nét buồn của một thời Thơ mới. Nét buồn man mác bâng khuâng của cái Tôi nhạy cảm đã đem đến cho thơ ca lãng mạn một vẻ đẹp riêng. Tâm sự nuối tiếc thể hiện trong bài thơ cũng là tâm trạng khá phổ biến trong thơ Xuân Diệu khi chứng kiến thời gian đang bước đi mà không chờ đợi con người. Nhà thơ từng quan niệm Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua Yêu đời đến say mê cuồng nhiệt như Xuân Diệu nên buồn, nuối tiếc cũng là điều dễ hiểu.
Những bài văn mẫu hay lớp 11Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân DiệuVới Xuân Diệu nếu "Tình không tuổi và xuân không ngày tháng" thì cảnh thu chứa đựng biết bao tình thu, bao rung động xôn xao. Hãy cùng phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu để cảm nhận những nét đẹp khi thu về trong thơ của "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới".Văn mẫu lớp 11 Cảm nhận về bài thơ Vội Vàng của Xuân DiệuPhân tích nét chung trong cảnh thiên nhiên của Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mạc TửBài tham khảo 1Xuân Diệu 1916-1985 là nhà thơ tình, viết hay nhất và nhiều nhất trong thời đại chúng ta. Thi sĩ đã để lại trên 400 bài thơ tình,; là nhà thơ "mới nhất trong những nhà thơ mới". Xuân Diệu cũng là thi sĩ của mùa thu. Với Xuân Diệu nếu "Tình không tuổi và xuân không ngày tháng" thì cảnh thu chứa đựng biết bao tình thu, bao rung động xôn xao, bởi lẽ "Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền".Trong hai tập thơ viết trước Cách mạng "Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió " có rất nhiều bài thơ nói đến sắc thu, hương thu, trăng thu, tình thu, thiếu nữ buổi thu về... Mùa thu thật đáng yêu, làm cho tâm hồn thi sĩ như dây đàn huyền diệu đang rung lên xao xuyến..."Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Diệu, rút trong tập "Thơ thơ", xuất bản năm 1938. Thu đến, xôn xao rung động đất trời. Cảnh vật đẹp mà thoáng buồn man mác. Lòng thiếu nữ càng trở nên bâng khuâng buổi thu nhận đầu tiên của thi sĩ Xuân Diệu về mùa thu không phải là âm thanh tiếng chày đập vải, không phải là ấn tượng "Ngô đồng nhất diệp lạc - Thiên hạ cộng trì thu" mà là ở dáng liễu, rặng liễu ven hồ, hay bên đường"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng".Cả một không gian "đìu hiu", buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như "đứng chịu tang". Lá liễu buông dài như tóc nàng cô phụ "buồn buông xuống". Lá liễu ướt đẫm sương thu tưởng như "lệ ngàn hàng". Liễu được nhân hóa "đứng chịu tang", từ tóc liễu đến lệ liễu đều mang theo bao nỗi buồn thấm thía. Một nét liễu, một dáng liễu được miêu tả và cảm nhận đầy chất thơ. Biện pháp láy âm được Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu "đìu hiu - chịu", "tang - ngàn - hàng", "buồn - buông - xuống". Đó là một điểm mạnh, khá mới mẻ trong thi pháp mà Xuân Diệu đã học tập được trong trường phái thơ tượng trưng Pháp trong thế kỉ mê ngắm "rặng liễu đìu hiu... ", nhà thơ khẽ reo lên khi chợt nhận thấy thu đã đến. Cách ngắt nhịp 4/3 với điệp ngữ "mùa thu tới" đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ"Đây mùa thu tới/mùa thu tớiVới áo mơ phai/dệt lá vàng".Một vần lưng thần tình "tới - với", một chữ "dệt" tinh tế trong miêu tả và cảm nhận. Thu vừa tới, sắc màu cỏ cây vạn vật đều đổi thay, trở thành "mơ phai". Đó đây điểm tô một vài sắc vàng của lá, đúng là "dệt lá vàng". Câu thơ "Với áo mơ phai dệt lá vàng" là một câu thơ nhiều thi vị, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi lên cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô thể nói, khổ thơ đầu đã vẽ lên một bức tranh thu đẹp, thơ mộng, thấm một nỗi buồn từ cây cỏ đến lòng người, nhưng không ảm đạm, thê lương làm nặng trĩu lòng ngày mỗi đêm đi qua. Thu đã về và thu dần dần trôi qua. Cảnh vật biến đổi. Hoa đã "rụng cành". Tác giả không nói "đôi ba...", mà lại viết "hơn một" cách dùng số từ ấy cũng là một cách nói rất mới. Trong vườn, màu đỏ từng chấm nhỏ đang lấn dần, đã và đang "rũa màu xanh"! Cũng nói về sự biến đổi ấy, trong bài "Cảm thu, tiễn thu" thi sĩ Tản Đà viết"Sắc đâu nhuộm ố quan hàCỏ vùng cây đỏ bóng tà tà dương".Cây cối bắt đầu rụng lá trơ cành như đang "run rẩy", khẽ "rung rinh" trước những làn gió thu lành lạnh, se sắt. Khổ thơ thứ hai, chất thơ ấy là sự lay động xôn xao từ cảnh vật, từ hoa lá hơi may mà thấm vào hồn thi sĩ"Hơn một loài hoa đã rụng cànhTrong vườn sắc đỏ rũa màu luồng run rẩy, rung rinh lá,Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh".Các từ láy "run rẩy", "rung rinh", "mỏng manh" là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Nghệ thuật sử dụng các phụ âm , "r" rụng, rũa, run rẩy, rung rinh và phụ âm "m" một, màu, mỏng manh với dụng ý thẩm mĩ trong gợi tả và biểu cảm đặc sắc. Đó cũng là một nét mới trong thi pháp của Xuân thơ thứ 3, thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo. Cũng có trăng nhưng là "nàng trăng tự ngẩn ngơ" trên bầu trời. Không nói là trăng non đầu tháng, không hỏi "Trăng bao nhiêu tuổi trăng già" mà lại nói là "nàng trăng". Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Cũng ó núi, có non, lúc ẩn lúc hiện, "khởi sự" nhô lên cuối chân trời xa, qua lớp sương thu mờ. Trăng và núi trong thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp"Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơNon xa khởi sự nhạt sương mờ... "Hai tiếng "đã nghe", "đã vắng" gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu lành lạnh"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,Đã vắng người sang những chuyến đò"Cấu trúc câu thơ song hành và cách diễn tả cũng rất mới. Có chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác. Như vậy, sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió, về cái xa vắng không chỉ bằng giác quan mà còn bằng cả linh hồn nữa. Chữ "luồn" đã cụ thể hóa cái rét, cảm nhận được nó bằng trực giác. Rét mướt luồn trong gió thu hiu hắt chứ không phải là gió rét. Rõ ràng là chưa rét đậm, rét tê tái, đúng là cái rét, cái lành lạnh những chiều thu, những đêm tàn cuối là một bức tranh thu tuyệt đẹp. Có vẻ đẹp của thiên nhiên, của mây trời, cánh chim. Có vẻ đẹp thiếu nữ. Cảnh đẹp, người đẹp mà thoáng buồn mơ hồ mênh mông. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn đẹp chia li như "bèo dạt mây trôi" của tình ca! Thi sĩ đã lấy cái "động" của cánh chim bay, của áng mây chiều trôi để đặc tả cái êm đềm, yên tĩnh của cõi vật và lòng người"Mây vẩn từng không chim bay đi,Khí trời u uất hận chia li"...Trong cái êm đềm, xa vắng ấy hiện lên hình ảnh thiếu nữ "ít nhiều" chưa xác định. Buồn tương tư, "buồn không nói". Một dáng điệu "tựa cửa nhìn xa", một tâm hồn "nghĩ ngợi gì" rất mơ hồ, xa xăm"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì"Là mùa xuân hay mùa thu, là mùa hè hay mùa đông, giữa thiên nhiên trăm sắc nghìn hương ấy, hình ảnh thiếu nữ đa tình, duyên dáng luôn luôn thấp thoáng qua những vần thơ của Xuân Diệu. Thi sĩ đa tình nên thiếu nữ cũng đa tình?"Bên cửa ngừng kim thêu bức gấmHây hây thục nữ mắt như thuyền"."Nụ cười xuân" - Thơ thơTrong chùm thơ thu của Yên Đổ, tình thu buồn thấm thía cô đơn được thể hiện qua hình ảnh một ông lão, lúc đang "tựa gối ôm cần" trên một chiếc thuyền câu "bé tẻo teo" giữa chiếc ao thu "lạnh lẽo", lúc là một cụ già đang ngồi uống rượu ngà ngà say trong đêm sâu, có lúc lại là một nhà nho đang lặng ngắm cảnh thu, muốn cầm bút đề thơ mà phân vân, lưỡng lự... Còn trong thơ thu của Xuân Diệu là hình bóng một giai nhân trong tương tư, đang mộng tưởng. Đó cũng là một nét mới nói về mùa thu trong thơ Xuân Diệu. Có thể nói trạng thái buồn mơ hồ, buồn không rõ nguyên cớ là một nét tâm trạng rất điển hình của hồn thơ Xuân Diệu"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói... "Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn...".Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Điệu. Bao nhiêu nét thu là bấy nhiêu nét vẽ tài hoa. Dáng thu, sắc thu, tình thu đều đẹp mà buồn, bao nên cái hồn thu mênh mang, xao xuyến. Đáng yêu nhất là hình ảnh thiếu nữ, một dáng thu yêu kiều mộng tưởng "Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì". Một trái tim đa tình, một ngòi bút tài hoa. Cách cảm và cách diễn tả rất mới, rất thơ. Đằng sau những sắc thu của đất trời, hoa lá, cây cỏ, của núi xa, của nàng trăng, của làn gió thu se lạnh,... là tiếng thu xôn xao, rung động trong tâm hồn thi sĩ tuổi đôi mươi và trong lòng thiếu nữ tuổi trăng tròn. Bài thơ cho ta nhiều ngẩn ngơ say cái hương sắc mùa thu xưa, mùa thu Hà Nội hơn nửa thế kỉ trước.
Khi phân tích bài thơ Đây mùa thu tới Xuân Diệu, các em sẽ khám phá ở thi sĩ Xuân Diệu một con người luôn chất chứa nhiều nỗi ưu tư, man mác buồn, nhịp sống chậm bên cạnh ông hoàng thơ tình luôn có khát khao sống mãnh liệt, căng tràn sức sống với thái độ sống gấp gáp. Bài viết liên quan Phân tích khổ bốn trong bài Đây mùa thu tới Xuân Diệu Phân tích khổ thơ sau trong bài Đây mùa thu tới "Hơn một loài hoa... xương mỏng manh." Bình giảng bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu Phân tích những cảm nhận tinh tế của Xuân Diệu trước thiên nhiên thể hiện trong bài Đây mùa thu tới Dàn ý phân tích những cảm nhận tinh tế của Xuân Diệu trước thiên nhiên trong Đây mùa thu tới Đề bài Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới Xuân Diệu.Bài làm"Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu bé tẻo teo"Từ lâu, đề tài mùa thu đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận cho tất cả các thi nhân. Nếu như ở trên ta có một "Thu điếu" - Nguyễn Khuyến với cảnh thu thân thuộc, bình dị của làng quê đồng bằng Bắc Bộ thì đến với "Đây mùa thu tới", Xuân Diệu lại mang đến bức tranh thu sinh động, ấn tượng đồng thời tác giả bày tỏ cảm xúc u sầu, trầm tư khi mùa thu đến."Đây mùa thu tới" được rút từ tập "Thơ thơ" xuất bản 1938, là một đại diện tiêu biểu cho nền thơ ca trước Cách mạng. Bài thơ chính là khung cảnh đất trời với "hơi thở" man mác buồn cùng với đó là nỗi bâng khuâng của người thiếu nữ khi mùa thu đầu bài thơ người đọc đã cảm nhận được cái buồn, vắng vẻ của cảnh vật"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng"Tác giả dẫn dắt độc giả với hình ảnh đầu tiên - "liễu". Xuân Diệu đã chọn hình ảnh này làm tín hiệu của mùa thu nhằm diễn tả một mùa thu buồn man mác nhưng cũng đầy lãng mạn. Tâm trạng mà tác giả xây dựng cho "nhân vật" này là cái "đìu hiu" - tức là sự vắng vẻ, đơn côi. Và sự cô đơn này không chỉ diễn ra trên một mà là "rặng" - với nhiều cây liễu càng làm cho nỗi buồn chồng chất, lây lan. Chính từ láy "đìu hiu" đã miêu tả không khí buồn, lẻ loi của "liễu". Nhà thơ đã dùng thủ pháp nhân hóa để nói lên hành động của "liễu" là "đứng chịu tang". Lúc này, "liễu" không còn là một thực thể vô tri vô giác nữa mà thay vào đó là hình ảnh buồn, lặng lẽ nghiêng mình trước "tang".Hình ảnh "lệ ngàn hàng" gợi nỗi đau, nỗi buồn khi tác giả sử dụng số đếm "ngàn" để chỉ về nước mắt của cây liễu. Chính điều này làm người ta tự hỏi liệu nguyên nhân nào khiến cho "liễu" khóc, ai đã ra đi để "nàng" phải "chịu tang". Hai câu thơ gợi mở và làm cho người đọc tò mò về những "diễn biến" tiếp theo. Ở khổ thơ đầu này, một biện pháp nghệ thuật nữa mà tác giả sử dụng là láy âm gần nhau. Liên tiếp là ba chữ "Buồn - buông - xuống" là các âm tiết nửa khép nên khẩu hình khi phát âm là hẹp tạo cảm giác nỗi buồn ứ đọng và khi phát âm thì âm thanh trầm. Thanh âm theo thứ tự là bằng thấp, bằng cao, trắc cao nên khi đọc câu thơ gợi cảm giác nỗi buồn đang "buông" từ từ, không vội vã . Cũng tương tự như vậy tác giả sử dụng láy âm cho ba chữ "tang - ngàn - hàng" cũng là âm tiết nửa từ bằng cao xuống bằng thấp nên các từ này gợi nỗi trĩu nặng, giọng điệu trầm xuống cho sự xót xa, thương tiếc của "liễu"."Đây mùa thu tới mùa thu tớiVới áo mơ phai dệt lá vàng."Niềm vui mừng, phấn khởi của tác giả khi mùa thu đã "chạm ngõ". Điệp cấu trúc "mùa thu tới" càng nói lên sự hồ hởi, chào đón "nàng thu" của thi sĩ. Câu cuối chính với hình ảnh nhẹ nhàng, trong sáng, mang đậm sắc thu với "phông nền" là màu vàng. Cả hai câu thơ đều có cách ngắt nhịp 4/3 diễn tả được sự chuyển động của nàng thu, đồng thời thể hiện thái độ mong chờ thu tới của thi như ở khổ thơ đầu tiên tác giả đưa chúng ta đến với những cảm xúc thuần túy của mùa thu thì ở khổ tiếp theo Xuân Diệu lại đi vào chi tiết, khắc họa rõ nét hơn bức tranh thiên nhiên"Hơn một loài hoa đã rụng cànhTrong vườn sắc đỏ rũa màu luồng run rẩy, rung rinh lá,Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh."Thoạt đọc câu đầu khổ thơ hai, độc giả sẽ cảm thấy khá lạ tai với cụm từ "hơn một". "Hơn một" tức là số nhiều, có thể là hai, ba, bốn.... nhưng thi sĩ lại không dùng một số đếm cụ thể mà lại dùng "hơn một". Chính cụm từ này đã gây ra cho người đọc nhiều hứng thú. Chắc hẳn rằng không chỉ có một loài hoa "đã rụng cành" mà là rất nhiều loài hoa đã như thế. Xuân Diệu quả là một nhà thơ tài tình khi ông liên tiếp đưa ra những từ ngữ đặc sắc và đầy chất gợi. Phải tinh tế lắm, nhạy cảm lắm thì ông mới chọn "rũa" để miêu tả cây trong vườn. Động từ này gây ra cho người đọc sự nhuốm màu, pha trộn giữa màu xanh và màu đỏ. "Sắc đỏ" đang dần xâm chiếm trên lá cây, như một tín hiệu cho mùa thu đã về. Câu thơ kế tiếp thi sĩ sử dụng liên tục hai từ láy "run rẩy", "rung rinh" như một sự lay động nhẹ của "nhánh khô gầy" khi có làn gió thoảng qua. Liên tiếp là bốn chữ "r" làm cho người đọc cảm nhận được cái lạnh, sự "run rẩy" cũng theo đó mà được cảm nhận rõ với khổ thơ thứ ba, người đọc bắt gặp hồn thơ vừa mang tính hiện thực lại có tính chất tượng trưng đầy sáng tạo. Ấn tượng ngay với độc giả là hình ảnh "nàng trăng". Cũng với ý nghĩa đó tác giả có thể diễn đạt theo cách khác như trăng non hoặc trăng đầu mùa. Nhưng không, thi nhân đã nhân hóa trăng thành hình ảnh một con gái với tuổi xuân xanh mơn mởn như chính cái sắc vàng của trăng non."Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơNon xa khởi sự nhạt sương mờ"Với phép tu từ nhân hóa, nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa tính cách của trăng y hệt như một người con gái đang suy nghĩ điều gì để rồi tự "ngẩn ngơ". Cùng với hình ảnh trăng, tác giả còn khéo léo giới thiệu về núi non quê hương. Từ "xa" cho thấy điểm nhìn của tác giả đã mở rộng ra. Thoạt đầu là từ trên cao khi chiêm ngưỡng "nàng trăng", còn giờ đây là không gian có chiều dài với núi non được bảo vệ bởi một lớp sương "nhạt". Chính từ này làm cho núi non không hiện ra một cách rõ nét cũng không bị bao phủ quá dày mà nó vừa đủ để tạo ra hình ảnh vừa thực vừa ảo."Đã nghe rét mướt luồn trong gióĐã vắng người sang những chuyến đò."Cấu trúc song hành "Đã..." diễn tả một sự việc, hành động đã xảy ra. Thu về mang theo cái rét đặc trưng cùng "hội ngộ". Lúc này tác giả đã chuyển xúc giác sang thính giác để nghe "lời thu nói". Cái rét ở đây không phải là rét đậm cũng không là rét tê tái mà là "rét mướt". Động từ độc đáo "luồn" tạo cảm giác cái rét đang len lỏi vào từng cơn gió cùng về với mùa thu. Câu thơ cuối miêu tả hiện thực những chuyến đò giờ đã vắng người sang gợi cảm giác buồn, vắng với khổ thơ cuối cùng"Mây vẩn từng không chim bay điKhí trời u uất hận chia lyÍt nhiều thiếu nữ buồn không nóiTựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì."Nếu như ở "Thu điếu" Nguyễn Khuyến đưa đến cho chúng ta một bầu trời nhẹ nhàng, trong xanh - "tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt" thì "Đây mùa thu tới" bầu trời của Xuân Diệu lại đượm buồn. Thi sĩ dùng những hình ảnh chuyển động để nói tới cái tĩnh lặng của con người. "Chim bay đi" trong sự chia ly của khí trời làm cho không gian như chia đôi, tạo cảm giác buồn đơn chiếc. Tác giả đã miêu tả từ cái xác định đến cái không xác định làm cho câu thơ có nét mới lạ. Hình ảnh "thiếu nữ buồn không nói" cùng với nghệ thuật đảo ngữ đã khắc họa nỗi sầu thảm, lẻ loi, cô đơn của cô gái trước không gian mênh mông rộng lớn. "Nhìn xa", "nghĩ ngợi" càng làm rõ hơn sự suy tư, trầm ngâm của nhân vật trước cảnh sắc mùa thu hay chính xác là bước "chuyển mình" của "nàng thu". Mượn hình ảnh "thiếu nữ", tác giả đã nói lên suy nghĩ, tâm sự của mình về bức tranh thu. Đó chính là cảm xúc buồn, suy tư khi mùa thu dần "tàn".Với "Đây mùa thu tới", nhà thơ Xuân Diệu đã cho độc giả thấy cảm quan cực kì xuất sắc trong việc quan sát, miêu tả cảnh vật khi mùa thu tới. Bài thơ không những có đầy đủ hình ảnh, cảnh sắc mà còn chất chứa tình thu. Bằng tình yêu cuộc sống, thái độ trân quý thời gian thi sĩ đã vẽ nên bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời cũng mang nét u buồn, cô cạnh Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới Xuân Diệu các em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như Phân tích khổ bốn trong bài Đây mùa thu tới hay phần Phân tích bài thơ Khi con tu hú nhằm củng cố kiến thức của mình.
Đề bài Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới Xuân Diệu. Bài làm Bạn đang xem Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới Xuân Diệu “Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu bé tẻo teo” Từ lâu, đề tài mùa thu đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận cho tất cả các thi nhân. Nếu như ở trên ta có một “Thu điếu” – Nguyễn Khuyến với cảnh thu thân thuộc, bình dị của làng quê đồng bằng Bắc Bộ thì đến với “Đây mùa thu tới”, Xuân Diệu lại mang đến bức tranh thu sinh động, ấn tượng đồng thời tác giả bày tỏ cảm xúc u sầu, trầm tư khi mùa thu đến. “Đây mùa thu tới” được rút từ tập “Thơ thơ” xuất bản 1938, là một đại diện tiêu biểu cho nền thơ ca trước Cách mạng. Bài thơ chính là khung cảnh đất trời với “hơi thở” man mác buồn cùng với đó là nỗi bâng khuâng của người thiếu nữ khi mùa thu về. Mở đầu bài thơ người đọc đã cảm nhận được cái buồn, vắng vẻ của cảnh vật “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” Tác giả dẫn dắt độc giả với hình ảnh đầu tiên – “liễu”. Xuân Diệu đã chọn hình ảnh này làm tín hiệu của mùa thu nhằm diễn tả một mùa thu buồn man mác nhưng cũng đầy lãng mạn. Tâm trạng mà tác giả xây dựng cho “nhân vật” này là cái “đìu hiu” – tức là sự vắng vẻ, đơn côi. Và sự cô đơn này không chỉ diễn ra trên một mà là “rặng” – với nhiều cây liễu càng làm cho nỗi buồn chồng chất, lây lan. Chính từ láy “đìu hiu” đã miêu tả không khí buồn, lẻ loi của “liễu”. Nhà thơ đã dùng thủ pháp nhân hóa để nói lên hành động của “liễu” là “đứng chịu tang”. Lúc này, “liễu” không còn là một thực thể vô tri vô giác nữa mà thay vào đó là hình ảnh buồn, lặng lẽ nghiêng mình trước “tang”. Hình ảnh “lệ ngàn hàng” gợi nỗi đau, nỗi buồn khi tác giả sử dụng số đếm “ngàn” để chỉ về nước mắt của cây liễu. Chính điều này làm người ta tự hỏi liệu nguyên nhân nào khiến cho “liễu” khóc, ai đã ra đi để “nàng” phải “chịu tang”. Hai câu thơ gợi mở và làm cho người đọc tò mò về những “diễn biến” tiếp theo. Ở khổ thơ đầu này, một biện pháp nghệ thuật nữa mà tác giả sử dụng là láy âm gần nhau. Liên tiếp là ba chữ “Buồn – buông – xuống” là các âm tiết nửa khép nên khẩu hình khi phát âm là hẹp tạo cảm giác nỗi buồn ứ đọng và khi phát âm thì âm thanh trầm. Thanh âm theo thứ tự là bằng thấp, bằng cao, trắc cao nên khi đọc câu thơ gợi cảm giác nỗi buồn đang “buông” từ từ, không vội vã . Cũng tương tự như vậy tác giả sử dụng láy âm cho ba chữ “tang – ngàn – hàng” cũng là âm tiết nửa khép. Đi từ bằng cao xuống bằng thấp nên các từ này gợi nỗi trĩu nặng, giọng điệu trầm xuống cho sự xót xa, thương tiếc của “liễu”. “Đây mùa thu tới mùa thu tớiVới áo mơ phai dệt lá vàng.” Niềm vui mừng, phấn khởi của tác giả khi mùa thu đã “chạm ngõ”. Điệp cấu trúc “mùa thu tới” càng nói lên sự hồ hởi, chào đón “nàng thu” của thi sĩ. Câu cuối chính với hình ảnh nhẹ nhàng, trong sáng, mang đậm sắc thu với “phông nền” là màu vàng. Cả hai câu thơ đều có cách ngắt nhịp 4/3 diễn tả được sự chuyển động của nàng thu, đồng thời thể hiện thái độ mong chờ thu tới của thi sĩ. Nếu như ở khổ thơ đầu tiên tác giả đưa chúng ta đến với những cảm xúc thuần túy của mùa thu thì ở khổ tiếp theo Xuân Diệu lại đi vào chi tiết, khắc họa rõ nét hơn bức tranh thiên nhiên “Hơn một loài hoa đã rụng cànhTrong vườn sắc đỏ rũa màu luồng run rẩy, rung rinh lá,Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.” Thoạt đọc câu đầu khổ thơ hai, độc giả sẽ cảm thấy khá lạ tai với cụm từ “hơn một”. “Hơn một” tức là số nhiều, có thể là hai, ba, bốn…. nhưng thi sĩ lại không dùng một số đếm cụ thể mà lại dùng “hơn một”. Chính cụm từ này đã gây ra cho người đọc nhiều hứng thú. Chắc hẳn rằng không chỉ có một loài hoa “đã rụng cành” mà là rất nhiều loài hoa đã như thế. Xuân Diệu quả là một nhà thơ tài tình khi ông liên tiếp đưa ra những từ ngữ đặc sắc và đầy chất gợi. Phải tinh tế lắm, nhạy cảm lắm thì ông mới chọn “rũa” để miêu tả cây trong vườn. Động từ này gây ra cho người đọc sự nhuốm màu, pha trộn giữa màu xanh và màu đỏ. “Sắc đỏ” đang dần xâm chiếm trên lá cây, như một tín hiệu cho mùa thu đã về. Câu thơ kế tiếp thi sĩ sử dụng liên tục hai từ láy “run rẩy”, “rung rinh” như một sự lay động nhẹ của “nhánh khô gầy” khi có làn gió thoảng qua. Liên tiếp là bốn chữ “r” làm cho người đọc cảm nhận được cái lạnh, sự “run rẩy” cũng theo đó mà được cảm nhận rõ hơn. Đến với khổ thơ thứ ba, người đọc bắt gặp hồn thơ vừa mang tính hiện thực lại có tính chất tượng trưng đầy sáng tạo. Ấn tượng ngay với độc giả là hình ảnh “nàng trăng”. Cũng với ý nghĩa đó tác giả có thể diễn đạt theo cách khác như trăng non hoặc trăng đầu mùa. Nhưng không, thi nhân đã nhân hóa trăng thành hình ảnh một con gái với tuổi xuân xanh mơn mởn như chính cái sắc vàng của trăng non. “Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơNon xa khởi sự nhạt sương mờ” Với phép tu từ nhân hóa, nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa tính cách của trăng y hệt như một người con gái đang suy nghĩ điều gì để rồi tự “ngẩn ngơ”. Cùng với hình ảnh trăng, tác giả còn khéo léo giới thiệu về núi non quê hương. Từ “xa” cho thấy điểm nhìn của tác giả đã mở rộng ra. Thoạt đầu là từ trên cao khi chiêm ngưỡng “nàng trăng”, còn giờ đây là không gian có chiều dài với núi non được bảo vệ bởi một lớp sương “nhạt”. Chính từ này làm cho núi non không hiện ra một cách rõ nét cũng không bị bao phủ quá dày mà nó vừa đủ để tạo ra hình ảnh vừa thực vừa ảo. “Đã nghe rét mướt luồn trong gióĐã vắng người sang những chuyến đò.” Cấu trúc song hành “Đã…” diễn tả một sự việc, hành động đã xảy ra. Thu về mang theo cái rét đặc trưng cùng “hội ngộ”. Lúc này tác giả đã chuyển xúc giác sang thính giác để nghe “lời thu nói”. Cái rét ở đây không phải là rét đậm cũng không là rét tê tái mà là “rét mướt”. Động từ độc đáo “luồn” tạo cảm giác cái rét đang len lỏi vào từng cơn gió cùng về với mùa thu. Câu thơ cuối miêu tả hiện thực những chuyến đò giờ đã vắng người sang gợi cảm giác buồn, vắng vẻ. Đến với khổ thơ cuối cùng “Mây vẩn từng không chim bay điKhí trời u uất hận chia lyÍt nhiều thiếu nữ buồn không nóiTựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.” Nếu như ở “Thu điếu” Nguyễn Khuyến đưa đến cho chúng ta một bầu trời nhẹ nhàng, trong xanh – “tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” thì “Đây mùa thu tới” bầu trời của Xuân Diệu lại đượm buồn. Thi sĩ dùng những hình ảnh chuyển động để nói tới cái tĩnh lặng của con người. “Chim bay đi” trong sự chia ly của khí trời làm cho không gian như chia đôi, tạo cảm giác buồn đơn chiếc. Tác giả đã miêu tả từ cái xác định đến cái không xác định làm cho câu thơ có nét mới lạ. Hình ảnh “thiếu nữ buồn không nói” cùng với nghệ thuật đảo ngữ đã khắc họa nỗi sầu thảm, lẻ loi, cô đơn của cô gái trước không gian mênh mông rộng lớn. “Nhìn xa”, “nghĩ ngợi” càng làm rõ hơn sự suy tư, trầm ngâm của nhân vật trước cảnh sắc mùa thu hay chính xác là bước “chuyển mình” của “nàng thu”. Mượn hình ảnh “thiếu nữ”, tác giả đã nói lên suy nghĩ, tâm sự của mình về bức tranh thu. Đó chính là cảm xúc buồn, suy tư khi mùa thu dần “tàn”. Với “Đây mùa thu tới”, nhà thơ Xuân Diệu đã cho độc giả thấy cảm quan cực kì xuất sắc trong việc quan sát, miêu tả cảnh vật khi mùa thu tới. Bài thơ không những có đầy đủ hình ảnh, cảnh sắc mà còn chất chứa tình thu. Bằng tình yêu cuộc sống, thái độ trân quý thời gian thi sĩ đã vẽ nên bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời cũng mang nét u buồn, cô đơn. Bên cạnh Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới Xuân Diệu các em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như Phân tích khổ bốn trong bài Đây mùa thu tới hay phần Phân tích bài thơ Khi con tu hú nhằm củng cố kiến thức của mình. Đăng bởi THPT Ngô Thì Nhậm Chuyên mục Giáo Dục
đây mùa thu tới xuân diệu