Tất Cả Bệnh đường hô hấp dưới Các apxe vùng họng Chấn thương thanh khí quản Dị vật đường ăn Dị vật đường thở Giải phẫu – sinh lí thanh quản Giải phẫu – sinh lý họng Khó thở thanh quản và mở khí quản Lao thanh quản Liệt cơ mở thanh quản Mềm sụn thanh quản Nấm thanh quản Ngủ ngáy và hội chứng Theo Bệnh viện Nhi T.Ư, hội chứng Treacher Collins là rối loạn di truyền hiếm gặp với tỷ lệ mắc bệnh khoảng 1/50.000 trẻ sinh ra sống. Bệnh gây biến dạng về mắt, tai, xương hàm… ở cả 2 bên của khuôn mặt. Trẻ mắc bệnh thường không bị ảnh hưởng trí tuệ. I. ĐỊNH NGHĨA. Là áp xe khu trú ở thành bên họng, do lan rộng áp xe các vùng lân cận mà thường có nguyên nhân do răng. II. NGUYÊN NHÂN. + Răng viêm quanh cuống không được điều trị. + Răng có viêm quanh răng không được điều trị. + Do biến chứng răng khôn. + Do tai biến điều c.Chẩn đoán phân biệt · Khối u thành sau hoặc thành bên họng · Áp xe thành sau họng do lao · Áp xe Amiđan · Hóc xương ở thực quản gây áp xe thực quản III.Điều trị: 1.Nguyên tắc điều trị: · Chọc hút và rạch dẫn lưu apxe · Ăn qua Sonde · Kháng sinh liều cao · Phải thật Áp-xe thành sau họng Phòng ngừa P H Ò N G N G Ừ A Ngăn ngừa thứ cấp Tái phát khó có khả năng xảy ra. Bệnh nhân nên hoàn thành liệu trình dùng đủ thuốc kháng sinh. Tránh làm tổn thương thành sau họng và giữ gìn vệ sinh răng miệng sạch sẽ có thể giúp phòng bệnh. Sau khi áp sát xe, giật túi xách của 2 cha con bất thành, hai tên cướp bị té ngã, liền bỏ chạy. Sau đó, dùng bình xịt hơi cay tấn công một phụ nữ đang đi trên đường hòng cướp xe tẩu thoát. 2jqYc. Áp xe là gì? Áp xe là tên gọi của một tổ chức viêm nhiễm, khu trú thành một khối mềm, bên trong chứa đầy mủ cấu tạo từ vi khuẩn, xác bạch cầu và các mảnh vụn. Áp xe dễ dàng được nhận diện trên lâm sàng với các đặc điểm sau là một khối mềm, lùng nhùng, da vùng áp xe thường nóng, đỏ, sưng nề, chạm vào thấy đau. Một số triệu chứng khác có thể thấy trên lâm sàng tùy thuộc vào vị trí của các ổ áp xe. Áp xe có thể hình thành ở khắp các vùng trên của cơ thể. Chia làm 2 nhóm chính Áp xe ở mô dưới da ổ mụn nhọt, hậu bối là hình thái phổ biến nhất. Vị trí thường gặp nhất là nách do lỗ chân lông bị nhiễm trùng, âm đạo do các tuyến ở cửa âm đạo bị nhiễm trùng, da vùng xương cùng cụt gây nên áp xe nếp lằn mông, quanh răng gây nên áp xe răng. Áp xe bên trong cơ thể các ổ áp xe thỉnh thoảng hình thành bên trong cơ thể, ngay tại mô của các cơ quan như áp xe gan, áp xe não, áp xe thận, áp xe vú,… hoặc tại khoảng kẻ giữa chúng. Nhiễm trùng là nguyên nhân trực tiếp phổ biến nhất gây ra áp xe. Các tác nhân nhiễm trùng gây bệnh bao gồm Vi khuẩn vi khuẩn xâm nhập vào mô dưới da hoặc các tuyến bài tiết, gây nên phản ứng viêm, hoạt hóa các chất hóa học trung gian và các tế bào bạch cầu. Sự tắc nghẽn chất tiết của các tuyến mồ hôi, tuyến bã là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập và phát triển. Quá trình hệ miễn dịch cơ thể chống lại vi khuẩn sinh ra một chất lỏng gọi là mủ, chứa nhiều vi khuẩn và xác bạch cầu. Staphylococcus aureus là loại vi khuẩn chiếm tỷ lệ cao nhất ở nhiều khu vực trên thế giới, gây áp xe dưới da, áp xe màng cứng cột sống. Ký sinh trùng tác nhân này thường gặp ở các nước đang phát triển hơn, có thể kể đến các loại như giun chỉ, sán lá gan, giòi,… Chúng thường gây áp xe bên trong các tạng của cơ thể như áp xe gan do sán lá gan. Biểu hiện lâm sàng của áp xe khá đặc hiệu, bao gồm Áp xe nông dưới da quan sát thấy một khối phồng, da bao phủ lên ổ áp xe đỏ, sưng nề vùng da xung quanh, khi sờ vào có cảm giác nóng, đau, lùng nhùng do chứa mủ bên trong. Triệu chứng đau gặp trong áp xe là do áp lực trong khối áp xe tăng. Khi nhiễm trùng lan rộng ra các mô sâu hơn, người bệnh có thể có sốt, mệt mỏi. Áp xe bên trong cơ thể được phân loại áp xe sâu. Bệnh nhân gặp phải có triệu chứng toàn thân như sốt cao, rét run, ớn lạnh, môi khô, lưỡi bẩn. Toàn thân mệt mỏi, suy kiệt, hốc hác. Tùy theo vị trí của ổ áp xe, trên lâm sàng có thể gặp phải các triệu chứng khác như sốt cao rét run, đau tức vùng hạ sườn phải trong áp xe gan. Áp xe có thể được lây truyền do tác nhân gây bệnh lây lan từ người bệnh sang người lành. Đường lây truyền cụ thể thay đổi tùy theo từng nguyên nhân cụ thể. Những người có các đặc điểm sau có khả năng hình thành các khối áp xe cao hơn những người khác Điều kiện sống thiếu vệ sinh Thường xuyên tiếp xúc với người bị nhiễm trùng da Người gầy còm, suy kiệt, sức đề kháng kém Nghiện rượu, ma túy Mắc các bệnh như đái tháo đường, ung thư, AIDS, viêm loét đại tràng, bệnh Crohn Các bệnh về máu như bệnh hồng cầu hình liềm, bệnh bạch cầu Chấn thương nặng Sử dụng corticoid kéo dài, các thuốc tiêm tĩnh mạch Đang trong liệu trình hóa trị Áp xe có thể được phòng ngừa bằng các biện pháp sau Nâng cao, cải thiện môi trường sống Giữ gìn vệ sinh cá nhân tốt Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng Thường xuyên luyện tập thể dục thể thao Xây dựng lối sống lành mạnh, tăng cường hệ miễn dịch Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, đặc biệt sau khi tiếp xúc với người bệnh hoặc chất thải của người bệnh. Không lạm dụng rượu và sử dụng ma túy Tuân thủ điều trị tốt các bệnh lý nhiễm khuẩn, các bệnh lý toàn thân như đái tháo đường Đến gặp bác sĩ khi có các triệu chứng bất thường, không được tự ý điều trị, tránh để tổn thương lan rộng và nặng nề hơn. Chẩn đoán áp xe mô dưới da thường được thực hiện dễ dàng thông qua việc thăm khám lâm sàng với các biểu hiện sưng, nóng, đỏ, đau vùng da che phủ khối áp xe. Đối với áp xe bên trong cơ thể hay áp xe nội, các triệu chứng lâm sàng như sốt cao, rét run, đau tức vùng chứa khối áp xe chỉ mang tính chất gợi ý. Việc chẩn đoán xác định cần có sự hỗ trợ của các xét nghiệm cận lâm sàng và phương tiện chẩn đoán hình ảnh, bao gồm Công thức máu bạch cầu tăng cao, ưu thế bạch cầu đa nhân trung tính Xét nghiệm thể hiện phản ứng viêm trong cơ thể tốc độ lắng máu, fibrinogen và globulin tăng cao. Định lượng Protein C phản ứng CRP là một xét nghiệm có độ chính xác cao, cho phép phát hiện tình trạng viêm, nhiễm trùng trong cơ thể sớm hơn. Cấy máu dương tính Siêu âm rất có ích trong các trường hợp áp xe sâu như áp xe ở gan, mật, cơ đùi, cơ thắt lưng CT scan, MRI phát hiện hình ảnh các ổ áp xe ở các cơ quan như áp xe gan, phổi Chọc dò dịch, hút mủ làm xét nghiệm Sinh thiết tổn thương Chẩn đoán áp xe mô dưới da thường được thực hiện dễ dàng thông qua việc thăm khám lâm sàng với các biểu hiện sưng, nóng, đỏ, đau vùng da che phủ khối áp xe. Đối với áp xe bên trong cơ thể hay áp xe nội, các triệu chứng lâm sàng như sốt cao, rét run, đau tức vùng chứa khối áp xe chỉ mang tính chất gợi ý. Việc chẩn đoán xác định cần có sự hỗ trợ của các xét nghiệm cận lâm sàng và phương tiện chẩn đoán hình ảnh, bao gồm Công thức máu bạch cầu tăng cao, ưu thế bạch cầu đa nhân trung tính Xét nghiệm thể hiện phản ứng viêm trong cơ thể tốc độ lắng máu, fibrinogen và globulin tăng cao. Định lượng Protein C phản ứng viêm, nhiễm trùng trong cơ thể sớm hơn. Cấy máu dương tính Siêu âm rất có ích trong các trường hợp áp xe sâu như áp xe ở gan, mật, cơ đùi, cơ thắt lưng CT scan, MRI phát hiện hình ảnh các ổ áp xe ở các cơ quan như áp xe gan, phổi Chọc dò dịch, hút mủ làm xét nghiệm Sinh thiết tổn thương CRP là một xét nghiệm có độ chính xác cao, cho phép phát hiện tình trạng Một tổ chức áp xe nếu không được điều trị sẽ tiến triển nặng dần lên với tăng kích thước, đau nhiều hơn, xâm lấn rộng ra các mô xung quanh, cuối cùng có thể vỡ. Áp xe ở mô dưới da có thể vỡ ra da và chảy mủ ra bên ngoài, một số trường hợp còn tạo ra đường dò, phá hủy một vùng mô sâu rộng, gây khó khăn cho việc điều trị sau này. Các khối áp xe trong cơ thể cũng có thể vỡ vào ổ phúc mạc, gây viêm phúc mạc khu trú hoặc toàn thể, nặng hơn có thể dẫn tới nhiễm trùng máu. Việc điều trị áp xe phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là phân loại áp xe nông hay áp xe mô dưới da và áp xe sâu bên trong các cơ quan. Đối với các ổ áp xe mô dưới da, biện pháp điều trị hiệu quả là rạch dẫn lưu mủ ra ngoài. Một số nghiên cứu chứng minh việc sử dụng kết hợp thêm với thuốc kháng sinh không mang lại hiệu quả. Khi hết chảy dịch, bác sĩ có thể chèn gạc để cầm máu và băng vết thương. Một số các trường hợp áp xe nông nhỏ có thể tự chảy dịch và khô lại mà không cần can thiệp gì. Thuốc giảm đau thông thường như paracetamol, aspirin có thể được chỉ định ở các bệnh nhân nhạy cảm. Đối với các ổ áp xe sâu, can thiệp ngoại khoa như rạch, dẫn lưu ổ áp xe cần phối hợp với thuốc kháng sinh. Thuốc kháng sinh nên được sử dụng theo kết quả kháng sinh đồ, sử dụng sớm và đủ liều. Việc rạch dẫn lưu mủ thường được thực hiện dưới sự hướng dẫn của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh như siêu âm. Điều trị các triệu chứng như sốt, đau và nâng cao thể trạng, bù nước và điện giải cũng cần được tiến hành song song. Cần loại bỏ dị vật bên trong ổ áp xe nếu có. Xem thêm Những điều cần biết về xét nghiệm công thức máu Áp xe vú Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị Áp xe hậu môn Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị I. TỔNG QUÁT Áp xe thành sau họng là viêm tấy, tụ mủ ở khoang Heké hay khoang sau họng Chủ yếu gặp ở trẻ em dưới 2 tuổi, do viêm tấy mủ hạch lympho Gillete nằm trong khoang này. Hạch Gillete sơ teo nhỏ dần và mất đi sau 2 tuổi II. NGUYÊN NHÂN Chủ yếu do biến chứng của viêm VA cấp, mủ. Cũng gặp trong viêm mũi, viêm họng do vi khuẩn hay virus vì hạch Gillete nhận bạch huyết của cả vùng mũi họng, vòi nhĩ. Ở trẻ lớn, người lớn có thể gặp do chấn thương, hóc xương vùng thành sau họng III. CHẨN ĐOÁN Trẻ đang vị viêm VA cấp hay viêm mũi họng cấp đột nhiên sốt cao, có thể tình trạng nhiễm trùng, mệt mỏi, quấy khóc nhiều Khó nuốt là triệu chứng cơ bản, có sớm và rõ rệt + Lúc đầu khó nuốt do nuốt đau. + Sau khối áp xe hình thành, to lên không chỉ nuốt đau tăng mà gây nuốt vướng tắc. Do nuốt đau, nuốt vướng nên trẻ không bú, ăn uống được. Trẻ luôn luôn có ứ đọng, chảy nước dãi. Tiếng khóc, nói lúc đầu không rõ, sau khàn có thể không ra tiếng Khó thở, khò khè do khối áp xe to làm cản trở đường thở. Nếu khối áp xe thấp, lan xuống vùng hạ họng – thanh quản → khó thở thanh quản Hạch cổ thường sưng to, đau làm bệnh nhi luôn cúi cổ. Do thiếu ăn, thiếu thở nên thể trạng suy sụp rõ. Khám họng để xác định tình trạng, vị trí khối áp xe thành sau họng, nhưng phải hết sức thận trọng, nhẹ nhàng và nhanh chóng khi đè lưỡi vì có thể gây cơn ngưng thở dẫn đến tử vong + Thành sau họng bị khối áp xe dầy phồng, căng, mềm, nó thường ở chính giữa, có thể hơi lệch sang bên, có thể khối áp xe ở thấp dưới đáy lưỡi, khó nhìn thấy rõ. + Không nên dùng đè lưỡi, hay ngón tay đè, ấn trên chỗ phồng vì khối áp xe có thể tự vỡ, mũ trào vào đường thở gây sặc, ngạt thở, tử vong. – Chuẩn đoán áp xe thành sau họng + Ở trẻ nhỏ < 2 tuổi chủ yếu dựa trên tình trạng nhiễm trùng nặng; không bú, ăn được; tiếng khóc thay đổi, không ra tiếng; thở khò khè. + X-quang cổ nghiêng cho thấy rõ vị trí khối áp xe trước cột sống, đôi khi có hình khí và bóng hơi phía trên áp xe. + Cần chẩn đoán phân biệt dị vật, viêm thanh nhiệt xuất hiện đột ngột khó thở có trước, thành sau họng bình thường. + Ở trẻ lớn, người lớn ít gặp có tiền sử chấn thương, hay dị vật, tình trạng nhiễm trùng, khó thở thường không nguy kịch. + Chuẩn đoán phân biệt với cột sống cổ Bệnh Pott áp xe lạnh ở khoang trước cột sống, diễn tiến từ từ, không gây. IV. XỬ TRÍ Khi ổ áp xe chưa hình thành rõ Điều trị với kháng sinh liều cao + Clafon Rocephine, Moxalacfam 50 – 100 mg/kg JIV. + Metronidazo Flagyl, Tiberal 20 – 30 mg /kg JJMC. + Tùy thuộc chức năng gan của bệnh nhân. + PNC M, Angmentin, Clindangycin 20 – 25 mg/kg/3lần/J. + Phối hợp Coiticoid chống viêm phù nề. Theo dõi sát Khi ổ áp xe đã hình thành Cần nhanh chóng chích tháo ổ mủ đang đe dọa nghiêm trọng sinh ạng đứa trẻ. Làm trong phòng mổ có đủ phương tiện hồi sức. Làm theo các thao tác sau đây + Trẻ nằm ngửa, đầu thấp cho tiền mê và gây mê nhẹ qua úp mặt nạ gây mê. + Chọc hút đi 1 phần để giảm sức căng để ép khối áp xe. Và tránh làm vỡ ổ áp xe. Phẫu thuật viên dùng Mac Intosh. Nâng nhẹ lưỡi lên để nhìn rõ ổ áp xe dùng máy hút mạnh, có ống hút với kim 13 – 16, chọc hút lấy mủ rồi lấy mủ tìm VK. Và làm kháng sinh đồ. + Rạch mổ ổ áp xe ở nơi mềm nhất theo đường thẳng đứng. Hút hết mủ, dốc đầu bệnh nhân xuống thấp khi mạch mở. + Đặt ống thực quản qua mũi, nuôi ăn một tuần. + Hậu phẫu trong 2 – 3 ngày đầu, phải theo dõi vết chích rạch, banh lại mép rạch để hút sạch mủ. Kết hợp kháng sinh toàn thân dựa theo kháng sinh đồ trong 6 – 10 ngày chống suy dinh dưỡng cho trẻ. Sau 1 tháng nạo VA. Nếu trẻ có VA rõ. Nguồn chủ đề Áp xe cạnh họng là một áp xe sâu ở cổ. Các triệu chứng bao gồm sốt, đau họng, nuốt đau và sưng tấy ở cổ đến xương móng. Chẩn đoán bằng CT. Điều trị là kháng sinh và phẫu thuật dẫn cạnh họng họng hàm nằm ngoài cạnh cơ thắt hầu trên và trong cơ chân bướm. Khoang này kết nối với mọi khoang cổ quan trọng khác và được chia thành khoang trước và khoang sau bởi mỏm trâm. Khoang sau chứa động mạch cảnh, tĩnh mạch cảnh trong và nhiều dây thần kinh. Nhiễm trùng ở khoang cạnh họng thường bắt nguồn từ amidan hoặc từ họng, mặc dù có thể xảy ra lây lan cục bộ từ các nguồn do răng và các hạch bạch xe sưng tấy có thể làm tổn thương đường thở. Áp xe khoang sau có thể ăn mòn vào động mạch cảnh hoặc gây viêm tắc tĩnh mạch do nhiễm trùng ở tĩnh mạch cảnh trong hội chứng Lemierre. Các triệu chứng và dấu hiệu của áp xe cạnh họng Hầu hết các bệnh nhân bị áp xe cạnh họng đều bị sốt, đau họng, nuốt đau và sưng tấy ở cổ xuống đến xương móng. Áp xe khoang trước gây cứng hàm và lõm dọc theo góc hàm, kèm theo phình vào trong của amidan và thành bên của họng. Áp xe khoang sau gây sưng tấy nổi rõ hơn ở thành sau họng. Cứng hàm không đáng kể. Áp-xe thành sau có thể liên quan đến các cấu trúc bên trong vỏ động mạch cảnh, có thể gây rét run, sốt cao, vãng khuẩn huyết, thiếu sót thần kinh và xuất huyết ồ ạt do vỡ động mạch cảnh. Chụp CTNghi ngờ áp xe cạnh họng ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng sâu ở cổ khó xác định ranh giới hoặc các triệu chứng điển hình khác và chẩn đoán được xác định bằng CT có ngấm thuốc cản quang. Thuốc kháng sinh phổ rộng ví dụ, ceftriaxone, clindamycinPhẫu thuật dẫn lưuĐiều trị ở bệnh nhân bị áp xe cạnh họng có thể cần phải kiểm soát đường thở. Nhìn chung, cần phải có kháng sinh phổ rộng đường tiêm ví dụ, ampicillin-sulbactam hoặc clindamycin và phẫu thuật dẫn lưu. Áp-xe thành sau được dẫn lưu ra bên ngoài qua hố dưới hàm. Áp xe thành trước thường có thể được dẫn lưu qua đường rạch trong miệng, mặc dù áp xe lớn hơn mở rộng ra ngoài khoang cạnh họng cũng có thể cần phương pháp phẫu thuật bên ngoài. Một vài ngày dùng kháng sinh theo xác định của nuôi cấy qua đường tiêm sau khi dẫn lưu, sau đó là 10 đến 14 ngày dùng kháng sinh đường uống. Đôi khi, áp xe nhỏ có thể được điều trị bằng kháng sinh đường tĩnh mạch đơn thuần. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền. Áp-xe thành sau họng là hiện tượng viêm nhiễm, hóa mủ nằm ở khoảng trống giữa thành sau của họng miệng và cân trước sống, đặc biệt với trẻ dưới 2 tuổi, khối áp-xe khu trú tại hạch có tên là Gillet hạch này chỉ có ở trẻ em dưới 2 tuổi, sau đó hạch thoái triển dần. Có thể bạn quan tâm ▶ Dấu hiệu cảnh báo bệnh viêm xoang ▶ Nguyên nhân amidan hốc mủ Áp-xe thành sau họng nguy hiểm thế nào? Áp-xe thành sau họng được xếp vào nhóm bệnh nhiễm khuẩn vùng cổ sâu. Đó là một bệnh nặng, đe dọa đến tính mạng người bệnh, tuy là một cấp cứu ít gặp trong chuyên khoa tai – mũi – họng nhưng tỷ lệ tử vong lại cao, chiếm khoảng 15% các nguyên nhân tử vong của trẻ dưới 2 tuổi trong bệnh lý cấp cứu tai – mũi – họng. Áp-xe thành sau họng gặp do biến chứng từ những nhiễm khuẩn vùng tai – mũi – họng như viêm viêm mũi xoang, viêm amidan… không được điều trị hoặc do độc tính của vi khuẩn gây bệnh quá cao, bệnh dễ dàng xuất hiện hơn ở những trẻ suy giảm miễn dịch, cơ thể suy dinh dưỡng. Từ những ổ nhiễm khuẩn này, quá trình viêm xâm nhập vào các hạch bạch huyết ở khoang sau họng gây ra áp-xe thành sau họng. Nếu áp-xe thành sau họng hình thành ở người lớn thì nguyên nhân lại xuất phát từ các chấn thương vùng họng, do vi khuẩn đặc hiệu như lao, do dị vật đường ăn chui sâu vào thành sau họng hoặc bệnh nhân bị dị vật tự móc họng gây ra. Cách phát hiện bệnh Ca bệnh điển hình được mô tả ở một trẻ dưới 2 tuổi sau một tuần bị ngạt mũi, chảy mũi vàng xanh, ho có đờm đột nhiên xuất hiện sốt rất cao, 39-40ºC, rét run, môi khô, lưỡi bẩn, da xanh tái, mạch nhanh nhỏ, khó bắt. Trẻ không bú được, bỏ bú, quấy khóc nhiều. Trẻ quay cổ khó khăn. Tiếng khóc như bị chẹn ở họng hoặc giọng nói thay đổi như ngậm hạt thị nếu là người lớn. Khi khối áp-xe quá to lan sâu xuống hạ họng-thanh quản sẽ xuất hiện khó thở, thở rít. Miệng xuất tiết nhiều nước dãi chảy ra ngoài, hơi thở có mùi rất hôi thối. Khám họng ở những trẻ này thấy niêm mạc họng, mũi đều đỏ rực, nhiều dịch tiết màu vàng xanh. Khối phồng quan sát ở ngay thành sau họng, to hay nhỏ tùy theo giai đoạn của bệnh. Xét nghiệm máu cho kết quả là bạch cầu đa nhân trong máu tăng cao nhất là bạch cầu đa nhân trung tính trên 80%. Chụp Xquang cổ nghiêng quan sát được khối phồng ở ngay họng miệng, lan xuống hạ họng, đa số các trường hợp nhìn thấy hình ảnh mức nước mức hơi trên phim một biểu hiện của khối áp-xe. Có thể tiến hành chụp cắt lớp vi tính vùng cổ nếu tình trạng bệnh nhân cho phép và ở cơ sở có điều kiện để có thể đánh giá được chính xác vị trí, kích thước, mức độ nặng của khối áp-xe. Chọc hút khối phồng là phương pháp vừa để chẩn đoán vừa để điều trị. Phương pháp cổ điển vẫn để trẻ nằm nghiêng rồi chích rạch dẫn lưu mủ từ trong khối phồng. Lấy mủ từ khối đó để nuôi cấy và làm kháng sinh đồ. Vi khuẩn được phát hiện chủ yếu là liên cầu, phế cầu, tụ cầu, Hemophilus influenzae và vi khuẩn yếm khí. Với sự phát triển mạnh mẽ của kháng sinh trong giai đoạn hiện nay, một số trường hợp nếu là ổ áp-xe mới hình thành, người ta có thể điều trị nội khoa và theo dõi tại bệnh viện. Trích rạch được thực hiện sau 3 ngày theo dõi mà bệnh không tiến triển tốt. Điều trị nội khoa kết hợp được thực hiện với kháng sinh liều cao, phổ rộng, có phối hợp các nhóm kháng sinh trong đó có nhóm kháng sinh chống kỵ khí. Hạ sốt, giảm viêm, giảm đau, bồi phụ nước và điện giải hợp lý cho trẻ. Phòng bệnh áp xe thành sau họng Khuyến cáo điều trị sớm và đúng đắn viêm mũi họng ở trẻ nhỏ tại các cơ sở y tế mà không nên tự chữa. Bệnh gây tử vong nếu điều trị muộn .Với những trường hợp bị hóc xương, người bệnh không được móc họng. Xử trí tốt các chấn thương. Sau điều trị áp-xe thành sau họng ổn định nên tiến hành nạo cắt amidan cho trẻ. Bệnh không có khả năng tự khỏi. Nếu không được xử trí đúng và kịp thời, bệnh nhân tử vong do nhiễm khuẩn nhiễm độc nặng, do chèn ép đường thở, áp-xe lan theo khoang sau tạng vào trung thất hoặc vỡ mủ vào trung thất. Nhưng nếu xử trí đúng, bệnh diễn biến tốt sau khi chích rạch từ 7 – 10 ngày. Cách tốt nhất là khi có dấu hiệu bệnh thì hãy nên tới ngay các phòng khám tai mũi họng uy tín để được kiểm tra và có hướng điều trị kịp thời. Tuyệt đối không tự ý uống thuốc hoặc sử dụng can thiệp bằng bất cứ hình thức nào bởi sẽ làm viêm nhiễm phát triển mạnh, dễ gây ra các biến chứng nguy hiểm hơn. Tại phòng khám Đa khoa Đại Việt với đội ngũ bác sĩ chuyên khoa có nhiều năm kinh nghiệm trong khám và chữa bệnh cùng với đó là thiết bị y khoa hiện đại , kết hợp giữa đông y và tây y để mang lại sức khỏe cho người bệnh. Áp dụng và kết hợp đông y và tây y trong quá trình điều trị để người bệnh phục hồi sớm nhất . Địa chỉ 1505 đường 3 tháng 2 phường 16 quận 11 Chí Minh hoặc gọi đến để được các chuyên viên tư vấn và hỗ trợ. Áp-xe thành sau họng là hiện tượng viêm nhiễm, hóa mủ nằm ở khoảng trống giữa thành sau của họng miệng và cân trước sống, đặc biệt với trẻ dưới 2 tuổi,Áp-xe thành sau họng là hiện tượng viêm nhiễm, hóa mủ nằm ở khoảng trống giữa thành sau của họng miệng và cân trước sống, đặc biệt với trẻ dưới 2 tuổi, khối áp-xe khu trú tại hạch có tên là Gillet hạch này chỉ có ở trẻ em dưới 2 tuổi, sau đó hạch thoái triển dần.Áp-xe thành sau họng nguy hiểm thế nào?Áp-xe thành sau họng được xếp vào nhóm bệnh nhiễm khuẩn vùng cổ sâu. Áp-xe thành sau họng là một bệnh nặng, đe dọa đến tính mạng người bệnh. Áp-xe thành sau họng tuy là một cấp cứu ít gặp trong chuyên khoa tai - mũi - họng nhưng tỷ lệ tử vong lại cao, chiếm khoảng 15% các nguyên nhân tử vong của trẻ dưới 2 tuổi trong bệnh lý cấp cứu tai - mũi - thành sau họng gặp do biến chứng từ những nhiễm khuẩn vùng tai - mũi - họng như viêm viêm mũi xoang, viêm amidan… không được điều trị hoặc do độc tính của vi khuẩn gây bệnh quá cao, bệnh dễ dàng xuất hiện hơn ở những trẻ suy giảm miễn dịch, cơ thể suy dinh dưỡng. Từ những ổ nhiễm khuẩn này, quá trình viêm xâm nhập vào các hạch bạch huyết ở khoang sau họng gây ra áp-xe thành sau áp-xe thành sau họng hình thành ở người lớn thì nguyên nhân lại xuất phát từ các chấn thương vùng họng, do vi khuẩn đặc hiệu như lao, do dị vật đường ăn chui sâu vào thành sau họng hoặc bệnh nhân bị dị vật tự móc họng gây ra. Viêm amidan là một nguyên nhân dẫn đến áp-xe thành sau phát hiện bệnhCa bệnh điển hình được mô tả ở một trẻ dưới 2 tuổi sau một tuần bị ngạt mũi, chảy mũi vàng xanh, ho có đờm đột nhiên xuất hiện sốt rất cao, 39-40ºC, rét run, môi khô, lưỡi bẩn, da xanh tái, mạch nhanh nhỏ, khó bắt. Trẻ không bú được, bỏ bú, quấy khóc nhiều. Trẻ quay cổ khó khăn. Tiếng khóc như bị chẹn ở họng hoặc giọng nói thay đổi như ngậm hạt thị nếu là người lớn. Khi khối áp-xe quá to lan sâu xuống hạ họng-thanh quản sẽ xuất hiện khó thở, thở rít. Miệng xuất tiết nhiều nước dãi chảy ra ngoài, hơi thở có mùi rất hôi họng ở những trẻ này thấy niêm mạc họng, mũi đều đỏ rực, nhiều dịch tiết màu vàng xanh. Khối phồng quan sát ở ngay thành sau họng, to hay nhỏ tùy theo giai đoạn của nghiệm máu cho kết quả là bạch cầu đa nhân trong máu tăng cao nhất là bạch cầu đa nhân trung tính trên 80%. Chụp Xquang cổ nghiêng quan sát được khối phồng ở ngay họng miệng, lan xuống hạ họng, đa số các trường hợp nhìn thấy hình ảnh mức nước mức hơi trên phim một biểu hiện của khối áp-xe. Có thể tiến hành chụp cắt lớp vi tính vùng cổ nếu tình trạng bệnh nhân cho phép và ở cơ sở có điều kiện để có thể đánh giá được chính xác vị trí, kích thước, mức độ nặng của khối hút khối phồng là phương pháp vừa để chẩn đoán vừa để điều trị. Phương pháp cổ điển vẫn để trẻ nằm nghiêng rồi chích rạch dẫn lưu mủ từ trong khối phồng. Lấy mủ từ khối đó để nuôi cấy và làm kháng sinh đồ. Vi khuẩn được phát hiện chủ yếu là liên cầu, phế cầu, tụ cầu, Hemophilus influenzae và vi khuẩn yếm sự phát triển mạnh mẽ của kháng sinh trong giai đoạn hiện nay, một số trường hợp nếu là ổ áp-xe mới hình thành, người ta có thể điều trị nội khoa và theo dõi tại bệnh viện. Trích rạch được thực hiện sau 3 ngày theo dõi mà bệnh không tiến triển trị nội khoa kết hợp được thực hiện với kháng sinh liều cao, phổ rộng, có phối hợp các nhóm kháng sinh trong đó có nhóm kháng sinh chống kỵ khí. Hạ sốt, giảm viêm, giảm đau, bồi phụ nước và điện giải hợp lý cho trẻ. Khi hóc xương không nên tự móc họng vì dễ gây áp-xe thành sau gây tử vong nếu điều trị muộnBệnh không có khả năng tự khỏi. Nếu không được xử trí đúng và kịp thời, bệnh nhân tử vong do nhiễm khuẩn nhiễm độc nặng, do chèn ép đường thở, áp-xe lan theo khoang sau tạng vào trung thất hoặc vỡ mủ vào trung thất. Nhưng nếu xử trí đúng, bệnh diễn biến tốt sau khi chích rạch từ 7 - 10 bệnh Tư vấn cho người dân tại cộng đồng để họ biết sự nguy hiểm của bệnh áp-xe thành sau họng, khuyến cáo điều trị sớm và đúng đắn viêm mũi họng ở trẻ nhỏ tại các cơ sở y tế mà không nên tự những trường hợp bị hóc xương, khuyến cáo người bệnh không được móc họng. Xử trí tốt các chấn thương. Sau điều trị áp-xe thành sau họng ổn định nên tiến hành nạo cắt amidan cho Phạm Bích Đào

áp xe thành sau họng